Tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với công tác dân tộc

ThS. Đinh Lý Hương
Ủy ban nhân dân xã Ia Chim, tỉnh Quảng Ngãi

(Quanlynhanuoc.vn) – Đảng ta luôn xác định công tác dân tộc là nhiệm vụ chính trị quan trọng, gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh – quốc phòng và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài viết nghiên cứu, phân tích và đánh giá vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với công tác dân tộc trên địa bàn, gắn với những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng công tác dân tộc của tỉnh. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với công tác dân tộc trong bối cảnh phát triển mới.

Từ khóa: Tỉnh ủy Quảng Ngãi, công tác dân tộc, tăng cường vai trò, lãnh đạo.

1. Đặt vấn đề

Công tác dân tộc giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt tại địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số như tỉnh Quảng Ngãi. Trước yêu cầu đổi mới, hội nhập, phát triển của đất nước ta trong bối cảnh vận hành chính quyền địa phương hai cấp và kỷ nguyên vươn mình của dân tôc, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với công tác dân tộc trở thành nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết. Điều này đặt ra yêu cầu mới về vai trò của Tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với công tác dân tộc. Vì vậy, cần đánh giá khách quan thực trạng thực hiện vai trò của Tỉnh ủy thời gian qua, đề xuất các giải pháp tăng cường vai trò của Tỉnh ủy đối với công tác dân tộc trong bối cảnh vận hành chính quyền địa phương hai cấp và những định hướng phát triển trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc ta.  

2. Thực trạng vai trò lãnh đạo của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi đối với công tác dân tộc thời gian qua

2.1. Thành tựu đạt được

Thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch, quyết định nhằm thực hiện chính sách về công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh. Điển hình như: Kế hoạch số 28-KH/UBND ngày 22/2/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai thực hiện chế độ báo cáo thống kê công tác dân tộc; Quyết định số 1444-QĐ/UBND ngày 16/9/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch số 51-KH/UBND ngày 6/3/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc giám sát thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024 trên địa bàn tỉnh…

Tỉnh Quảng Ngãi có 32 dân tộc thiểu số (chủ yếu là dân tộc Hrê, Co, Cadong), với 187.072 người, chiếm khoảng 15,17% dân số toàn tỉnh, sống tập trung chủ yếu là khu vực miền núi, có địa hình khá phức tạp, nhiều đồi núi cao hiểm trở, là địa bàn xung yếu về quốc phòng, an ninh1… Với đặc thù đó, Tỉnh ủy Quảng Ngãi luôn chú trọng tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc.

Tỉnh ủy Quảng Ngãi tích cực lãnh đạo các tổ chức đảng trực thuộc thực hiện công tác dân tộc. Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp… luôn bám sát chủ trương về công tác dân tộc đã được Tỉnh ủy đề ra. Các tổ chức đảng trực thuộc thường xuyên giữ mối liên hệ gần gũi với cá nhân, tổ chức tôn giáo. Qua đó, đã phát huy tinh thần yêu nước, ý thức, trách nhiệm của đồng bào có đạo trong xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, đặc biệt chú trọng địa bàn các huyện miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng bào có đạo tích cực hưởng ứng, tham gia các phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động, hoạt động an sinh xã hội, góp phần bảo đảm công tác dân tộc ngày càng đạt hiệu quả cao. Trong giai đoạn 2021 – 2023, “tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh giảm bình quân gần 5%/năm, riêng năm 2024 giảm 7%”2

Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương một số vấn để về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Ngày 12/6/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Trong đó, sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi sắp xếp, tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên là 14.832,55km2, quy mô dân số là 2.161.755 người3.

Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Quảng Ngãi đặc biệt chú trọng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội của tỉnh, xem đây là lực lượng nòng cốt trong củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là tại các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Theo đó, chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức này theo hướng bám sát thực tiễn, hiệu quả, sát dân, gần dân hơn; tập trung vào công tác tuyên truyền, vận động, giám sát và phản biện xã hội, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Đồng thời, huy động các nguồn lực tham gia làm tốt công tác dân tộc trên từng lĩnh vực cụ thể. Tính đến hết năm 2024, khu vực miền núi trong tỉnh có 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa, cứng hóa; 95,5% thôn, tổ dân phố có nhà sinh hoạt cộng đồng. Tỷ lệ người dân sử dụng điện quốc gia đạt 98%; 91% dân số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Tỷ lệ trường học được kiên cố hóa đạt 100%; 100% trạm y tế có bác sĩ, thôn có nhân viên y tế; 76% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia4…  

Tỉnh ủy Quảng Ngãi luôn chú trọng lãnh đạo việc củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc gắn với thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong đó, có nhiều đổi mới về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ khi điều động 40 cán bộ từ tỉnh về xã công tác, giữ các chức vụ chủ chốt nhằm phát huy thế mạnh trong điều hành, lãnh đạo, chỉ đạo cấp xã hoạt động hiệu quả. Việc này nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội tại cơ sở5.

Hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng hoạt động nền nếp, vững vàng, phát huy được vai trò nòng cốt trong tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả quán triệt thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã đạt được những kết quả tích cực, tạo được sự đồng thuận trong Nhân dân. Bên cạnh đó, một trong những điểm sáng trong quá trình thực hiện là việc phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số vận động đồng bào hưởng ứng các chủ trương, chính sách về công tác dân tộc. Chỉ tính riêng năm 2023, người dân đồng thuận đóng góp khoảng 12,8 tỷ đồng và hiến hơn 86 nghìn m2 đất để xây dựng nông thôn mới6.

Tỉnh ủy Quảng Ngãi chú trọng lãnh đạo thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc và triển khai hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Qua đó, tăng cường công tác quản lý nhà nước, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở các huyện miền núi, như: Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, Minh Long, Tây Trà…

Hằng năm, Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã lãnh đạo các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu, xây dựng và ban hành Chương trình kiểm tra, giám sát và chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc… Nội dung kiểm tra tập trung vào việc thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, giáo dục, y tế… Thông qua kiểm tra, giám sát, Tỉnh ủy kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai chính sách; đồng thời, chấn chỉnh, xử lý những sai phạm, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của các tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên.

2.2. Về hạn chế, bất cập

Một là, hoạt động tuyên truyền, vận động về công tác dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Do điều kiện địa hình miền núi, giao thông đi lại khó khăn gây cản trở đáng kể cho việc tiếp cận cộng đồng dân tộc khi thực hiện công tác tuyên truyền. Nhiều vùng sâu, vùng xa mức độ phủ sóng, internet đến bà con là hạn chế. Điều này khiến việc tiếp cận và truyền tải thông tin đến đồng bào các dân tộc thiểu số gặp khó khăn. Bên cạnh đó, việc thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ tuyên truyền viên thông thạo tiếng dân tộc và am hiểu phong tục, tập quán địa phương cũng là hạn chế làm giảm hiệu quả của hoạt động này.

Mặt khác, do tác động tiêu cực từ không gian mạng và các luồng thông tin xấu, độc cũng là một thách thức lớn trong công tác tuyên truyền thông tin chính thống đến đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây. Trong khi thông tin tích cực từ chính quyền chưa được kịp phổ biến, tuyên truyền đến người dân thì nhiều thông tin xuyên tạc, sai lệch về chính sách dân tộc lại dễ dàng tiếp cận họ thông qua mạng xã hội. Đặc biệt là ở các khu vực miền núi, nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, chúng lợi dụng các vấn đề như tranh chấp đất đai, tôn giáo, văn hóa truyền thống để “thổi phồng” mâu thuẫn, từ đó lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia các tổ chức bất hợp pháp, vi phạm pháp luật.

Hai là, quy hoạch, xây dựng và thực hiện chính sách về công tác dân tộc chưa phù hợp với thực tiễn với vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.

Thực tế cho thấy, hạn chế trong công tác quy hoạch phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa thực sự đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội chung của tỉnh. Việc khảo sát, đánh giá nhu cầu thực tiễn của từng vùng, từng dân tộc còn hạn chế, dẫn đến việc xây dựng chính sách chưa sát với điều kiện thực tế, thiếu tính đặc thù và chưa phát huy được tiềm năng nội lực của cộng đồng dân tộc nơi đây.

Trong quá trình thực thi chính sách, một số chương trình còn chậm tiến độ, phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, mang tính dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Công tác lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát triển kinh tế – xã hội với thực thi chính sách dân tộc chưa hiệu quả, còn chồng chéo, thiếu phối hợp giữa các ngành, các cấp. Thực tế, có một số khu đất tái định cư đã được xây dựng để phục vụ cho các dự án nhưng lại bị bỏ hoang do thiếu kế hoạch sử dụng. Tính đến hết năm 2024, toàn tỉnh Quảng Ngãi có khoảng 110 dự án chậm tiến độ; trong đó, 28 dự án chưa được giao đất, còn lại 81 dự án chậm tiến độ7.

Ba là, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị – xã hội ở một số địa phương chưa được phát huy.

Trong thực hiện công tác dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đặc biệt là cấp cơ sở vẫn còn mờ nhạt và chưa phát huy hiệu quả như mong đợi. Chức năng tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa được triển khai sâu rộng và thiếu sức lan tỏa. Một số tổ chức chính trị – xã hội có lúc, cơ nơi hoạt động còn mang tính hình thức, chưa thực sự bám sát cơ sở, chưa nắm bắt đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của người dân để phản ánh và đề xuất chính sách trong công tác dân tộc phù hợp.

Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chương trình, chính sách dân tộc còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến tình trạng chồng chéo, phân tán nguồn lực và kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc tại các tổ chức này, nhất là cấp xã, thôn, bản… còn hạn chế về năng lực, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và chưa được đào tạo bài bản, dẫn đến hiệu quả triển khai chưa cao. Mặt khác, việc phát huy vai trò của người có uy tín, các lực lượng cốt cán trong vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Phần lớn người có uy tín ở vùng sâu, vùng xa chưa được đào tạo bài bản về kiến thức chính sách dân tộc cũng như kỹ năng vận động quần chúng, nên việc truyền đạt thông tin chưa sâu sát và thiếu thuyết phục.

Bốn là, hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện công tác dân tộc ở một số địa bàn còn chưa kịp thời và mang tính hình thức.

Thực tế cho thấy, một trong những hạn chế, tồn tại là nội dung kiểm tra, giám sát còn thiếu chiều sâu, chủ yếu dừng lại ở việc đánh giá tiến độ thực hiện mà chưa đi sâu phân tích chất lượng, hiệu quả thực tế và tác động lâu dài của chính sách đến đời sống của người dân. Nhiều cuộc kiểm tra còn mang tính hình thức, khiến cho công tác giám sát chưa thực sự trở thành “công cụ” hỗ trợ điều hành và điều chỉnh chính sách của công tác dân tộc một cách kịp thời.

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát nói chung và công tác dân tộc còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhiều cán bộ chưa được đào tạo chuyên sâu về công tác dân tộc, thiếu hiểu biết về đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán của một số dân tộc thiểu số, dẫn đến việc thu thập thông tin và đánh giá thực tiễn chưa sát thực. Mặt khác, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong công tác giám sát chưa đồng bộ, chưa phân định rõ trách nhiệm, dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nội dung giám sát. Điển hình như, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành Kế hoạch giám sát thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh song kết quả đạt được chưa cao8.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh về vị trí, vai trò của công tác dân tộc trong bối cảnh mới.

Trước hết, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc tới các cấp, các ngành và toàn thể các tầng lớp nhân dân, coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên. Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy cần nhận thức sâu sắc về vai trò, phân định, phân cấp, phân quyền trong công tác dân tộc trong tỉnh; từ đó phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện, hệ thống, đồng bộ, chỉ đạo sâu sát trong việc xây dựng và thực hiện công tác dân tộc tại địa phương.

Cấp ủy, chính quyền các cấp cần nhận thức đúng và tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số CT/TW ngày 20/10/2015 về tăng cường và đổi mới công tác dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ ban hành Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045… Tiếp tục quán triệt, phổ biến sâu rộng các quy định, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh…

Đồng thời, nhận thức sâu sắc hơn và thực hiện quan điểm chỉ đạo tại Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc”9.

Thứ hai, tăng cường lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.

Để làm tốt công tác này, Tỉnh ủy Quảng Ngãi cần xác định phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc là nhiệm vụ chính trị quan trọng, cần thực hiện trọng tâm, trọng điểm. Trên cơ sở đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng, ổn định chính trị và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tỉnh ủy Quảng Ngãi cần đẩy mạnh lãnh đạo các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xác định rõ trọng tâm là hỗ trợ sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng địa phương. Chú trọng các chương trình, dự án như: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương trình xây dựng nông thôn mới… Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư hạ tầng giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế… giúp người dân tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ thiết yếu.

Tỉnh ủy Quảng Ngãi cần lãnh đạo các sở, ngành liên quan làm tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đặc biệt, cần quan tâm đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế, nhất là phổ cập giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc cần được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Tỉnh ủy chỉ đạo lực lượng công an, quân sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở trong công tác vận động quần chúng, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, không để phát sinh điểm nóng. Đồng thời, phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư nhằm xây dựng thế trận lòng dân vững chắc.

Thứ ba, Tỉnh ủy chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng nhân sự thực hiện công tác dân tộc.

Công tác dân tộc có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh ở mỗi địa phương. Ở tỉnh Quảng Ngãi, với đặc điểm có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhất là ở các vùng núi như Tây Trà, Trà Bồng, Sơn Tây, Sơn Hà, Ba Tơ… Vì vậy, để công tác dân tộc đạt hiệu quả cao cần rà soát, đánh giá tổng thể về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị làm công tác dân tộc từ tỉnh đến cấp xã để điều chỉnh, sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tỉnh ủy cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Ban Dân tộc và tôn giáo tỉnh, tăng cường phối hợp với các sở, ngành liên quan và chính quyền tại cấp xã vùng dân tộc thiểu số.

Đồng thời, chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Ưu tiên lựa chọn, tuyển dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số, am hiểu phong tục, tập quán địa phương vào làm công tác dân tộc ở cơ sở để nắm bắt tình hình, tâm tư, nguyện vọng của bà con. Song song đó, cần tạo điều kiện để cán bộ được luân chuyển qua thực tiễn, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm. Việc này giúp cán bộ nắm bắt sâu sát tình hình cơ sở, tăng năng lực xử lý tình huống, giải quyết vấn đề. Tỉnh cũng cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút và giữ chân cán bộ có năng lực, tâm huyết, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Bám sát Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới. Trong đó, chú trọng: “… từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, bảo đảm đồng bộ, góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm tỷ lệ hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan của Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập từ Trung ương đến cơ sở”10.

Thứ tư, phát huy vai trò của các tổ chức – chính trị xã hội các cấp và những người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số tham gia công tác dân tộc của tỉnh.

Để làm tốt công tác này, Tỉnh ủy cần chỉ đạo các tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện công tác dân tộc. Cấp ủy các cấp từ tỉnh đến xã cần xác định công tác dân tộc là nhiệm vụ chính trị trọng yếu cần lồng ghép trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh ở địa phương. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể, như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh… trong công tác dân tộc, đặc biệt là vận động bà con chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc. Thông qua đó, giúp bà con nắm bắt thông tin nhanh hơn, đúng hơn, từ đó chủ động tham gia phát triển sản xuất, giữ gìn bản sắc văn hóa và bảo đảm an ninh trật tự.

Đặc biệt, cần phát huy vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là lực lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng, là “cầu nối” giữa Đảng, chính quyền với người dân. Tỉnh ủy Quảng Ngãi cần lãnh đạo các cơ quan, đơn vị triển khai chính sách hỗ trợ người có uy tín như tổ chức tập huấn, thăm hỏi, biểu dương khen thưởng… để họ phát huy tốt nhất vai trò của mình.

Thứ năm, Tỉnh ủy tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác dân tộc của tỉnh.

Để làm tốt công tác này, Tỉnh ủy chỉ đạo Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống quy chế, quy trình kiểm tra, giám sát công tác dân tộc; kịp thời cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương. Việc ban hành kế hoạch kiểm tra, giám sát hằng năm cần có trọng tâm, trọng điểm, bám sát những lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm như quản lý đất đai, đầu tư công, công tác cán bộ, thực hiện chính sách dân tộc.

Đồng thời, chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm kiểm tra, giám sát. Cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn để cán bộ nắm chắc chủ trương, chính sách và thực tiễn vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để theo dõi, đánh giá và minh bạch hóa kết quả kiểm tra, giám sát, đồng thời phát huy vai trò giám sát của người dân và cộng đồng. Qua đó, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh sai phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh.

Thứ sáu, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để lãnh đạo công tác dân tộc

Trong bối cảnh hiện nay các cấp, các ngành đang “ra sức, đồng lòng” thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực thi chính quyền hai cấp tại địa phương… thì công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh đủ phẩm chất, năng lực, uy tín để chỉ đạo công tác dân tộc có vai trò “then chốt”, đặc biệt quan trọng. Trong đó, bám sát mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng”11.

Để đạt được mục tiêu này, cần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Chú trọng công tác quy hoạch cán bộ có tâm, có tầm, có kinh nghiệm thực tiễn, hiểu biết sâu sắc về tình hình dân tộc, vùng miền; đào tạo, bồi dưỡng công tác dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển an ninh phi truyền thống. Đồng thời, cần tăng cường sự đoàn kết, thống nhất nội bộ trong Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy – yếu tố “then chốt” bảo đảm lãnh đạo hiệu quả công tác dân tộc. Xây dựng phong cách lãnh đạo gắn với cơ sở, gần dân, hiểu dân, tôn trọng và phát huy vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số. Lãnh đạo Tỉnh ủy cần thường xuyên đi cơ sở, nắm chắc tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc để chỉ đạo sát thực tế, tăng cường tính thuyết phục và hiệu quả trong công tác lãnh đạo.

4. Kết luận

Nâng cao hiệu quả lãnh đạo công tác dân tộc của Tỉnh ủy Quảng Ngãi là nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và giữ vững ổn định chính trị – xã hội. Để công tác này đạt hiệu quả cao, công tác lãnh đạo của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi cần bảo đảm nguyên tắc phù hợp với đặc điểm văn hóa, tập quán và nhu cầu thực tiễn của từng địa phương, từng dân tộc. Qua đó, tạo chuyển biến rõ nét trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh trong giai đoạn mới.

Chú thích:
1. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2022). Nghị quyết Số 06-NQ/TU ngày 04/04/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác dân tộc.
2. Quảng Ngãi: Vùng đồng bào dân tộc thiểu số khởi sắc từ chính sách dân tộc. https://baodantoc.vn, ngày 30/11/2024.
3. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
4. Chuyển biến tích cực ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. https://baoquangngai.vn, ngày 29/11/2024.
5. Quảng Ngãi đưa 40 giám đốc, phó giám đốc sở… từ tỉnh về xã công tác. https://tuoitre.vn, ngày 6/6/2025.
6. Đổi mới, nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. https://baoquangngai.vn, ngày 13/12/2023.
7. 110 dự án chậm tiến độ, Quảng Ngãi xử lý thế nào? https://tuoitre.vn, ngày 11/12/2024.
8. Quảng Ngãi: Tăng cường giám sát thực hiện Chương trình MTQG 1719. https://baodantoc.vn, ngày 14/3/2024.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H.NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.141.
10. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới.
11. Ban Chấp hành Trung ương (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.