ThS. Lê Thị Kiều Oanh
Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi
(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số đang trở thành xu hướng tất yếu trong tất cả lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, từ sản xuất công nghiệp, thương mại điện tử đến giáo dục, y tế. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình này vẫn đang là một bài toán khó. Mặc dù, Nhà nước đã có nhiều chính sách và chương trình đào tạo nhưng trên thực tế vẫn có sự chênh lệch giữa cung và cầu về lao động có trình độ, chuyên môn cao. Bài viết phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh chuyển đổi số.
Từ khóa: Nguồn nhân lực chất lượng cao; chuyển đổi số; nguồn nhân lực số; kinh tế – xã hội.
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuynhiên, để thực hiện và phát triển chuyển đổi số trên tất cả lĩnh vực, Việt Nam phải vượt qua một số thách thức, trong đó có thách thức về nguồn nhân lực. Vì vậy, muốn chuyển đổi số phát triển, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực số để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành nền kinh tế một cách hiệu quả. Một khi chuyển đổi số phát triển cũng dẫn đến những thay đổi lớn về lực lượng lao động. Theo dự báo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), năm 2025, máy móc và con người sẽ có thời gian làm việc tương đương, máy móc sẽ thay thế vị trí của con người khiến cho 85 triệu việc làm có thể bị mất đi1. Quá trình chuyển đổi số đó sẽ vừa làm mất việc làm nhưng cũng tạo ra những công việc mới, đó có thể là những ngành cần sự hỗ trợ giữa công nghệ hiện đại và lao động có tay nghề, từ đó cũng làm thay đổi lớn về cơ cấu lao động và thị trường lao động.
2. Vai trò quan trọng của nguồn nhân lực số
Nhân lực số là lực lượng lao động kỹ thuật chuyên nghiệp, trực tiếp thực hiện các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, an toàn thông tin mạng để phục vụ hoạt động công nghệ số2. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay, nhân lực số là đối tượng được quan tâm và chú trọng bởi họ có hội tụ các kỹ năng, kinh nghiệm và kiến thức về công nghệ, về an toàn, bảo mật thông tin.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã xác định chuyển đổi số từ rất sớm, thể hiện sự nhanh nhạy và đón đầu xu thế phát triển của thế giới trong thời đại số. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Tại Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng cũng đã nhấn mạnh việc thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đồng thời, nêu rõ một trong ba đột phá chiến lược là: “chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”3.
Hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, trên quy mô quốc gia, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo cụ thể, đẩy mạnh việc triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia. Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi sốquốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; các tỉnh, thành phố trên cả nước và các bộ, ngành trung ương đã ban hành chương trình/kế hoạch/đề án riêng về chuyển đổi số trong giai đoạn 2021 -2025, theo đó, nhiệm vụ trọng tâm là: xây dựng chương trình, nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển chính phủ số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước, đồng thời lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ tối thiểu 1.000 chuyên gia về chuyển đổi số cho ngành, lĩnh vực, địa phương và trở thành lực lượng nòng cốt để dẫn dắt, tổ chức và lan tỏa tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Song song với quá trình tập trung xây dựng hạ tầng kỹ thuật số, xây dựng mạng lưới số đáp ứng yêu cầu về kết nối, xử lý dữ liệu, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, thúc đẩy kết nối internet thì việc xây dựng nền tảng số, như: thúc đẩy thanh toán điện tử, xây dựng hệ thống định danh, xác thực điện tử quốc gia, xây dựng và làm chủ công nghệ điện toán đám mây… rất cần có nguồn nhân lực số có trình độ cao để vận hành và phát triển hạ tầng kỹ thuật số và nền tảng số.
Về số lượng đòi hỏi cần cung ứng ngay, đó là lực lượng lao động kỹ thuật chuyên nghiệp về công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, an toàn bảo mật công nghệ thông tin mạng thực hiện được ngay nhiệm vụ trong công nghệ thông tin, đơn vị của khu vực công và các doanh nghiệp, các loại hình công ty, các nhà xưởng, đơn vị của khu vực tư. Về số lượng đòi hỏi cung ứng lâu dài, tiếp nối các thế hệ kế cận, được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, được bồi dưỡng, rèn luyện thường xuyên, có kỹ năng kỹ thuật cao để đáp ứng nhanh nhạy sự biến đổi không ngừng của công nghệ. Theo đó, nhu cầu tuyển dụng nguồn nhân lực được đào tạo chuyên môn về công nghệ thông tin, về nền tảng số, dữ liệu số, về an toàn, bảo mật, về an ninh mạng hiện nay rất lớn trong các cơ quan, đơn vị, kể cả khu vực công và khu vực tư. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở Việt Nam, đối với các nước lớn phát triển cũng đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin, dẫn đến cạnh tranh lớn về chế độ đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao này.
3. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
Hiện nay, quy mô dân số của cả nước là 100,3 triệu người (năm 2023). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,4 triệu người, trong đó lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người (chiếm 37,3%), khu vực nông thôn là 32,9 triệu người (chiếm 62,7%); lực lượng lao động nữ là 24,5 triệu người (chiếm 46,7%), lực lượng lao động nam là 27,9 triệu người (chiếm 53,3%). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, trong đó tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới là 75,2% nữ giới là 62,9%4. Qua số liệu thống kê cho thấy, quy mô lực lượng lao động Việt Nam tương đối lớn và có cơ cấu hài hòa giữa lao động nam và lao động nữ, đây là nguồn nhân lực dồi dào trong thực hiện các mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù Việt Nam có tốc độ già hóa dân số nhanh, cơ cấu dân số đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ người cao tuổi và giảm tỷ lệ dân số trẻ, song Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng khi có nhóm dân số trong độ tuổi từ 15 – 59 tuổi chiếm 62,2% dân số5. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức, thành tựu khoa học – kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi nghề nghiệp của lực lượng lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đã có nhiều cải thiện. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta tăng từ 40% (năm 2010) lên 65% (năm 2020). Tính đến năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp, chứng chỉ đạt 14,1 triệu người, chiếm 27% dân số6. Cùng với đó, chỉ số vốn nhân lực (HCI) và chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam không ngừng tăng qua các năm. Giai đoạn 2010 – 2020, HCI của nước ta tăng từ 0,66 lên 0,697.
Hiện nay Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Về phát triển con người, sau 20 năm (1990 – 2019), HDI của Việt Nam tăng 48%, từ 0,475 lên 0,7048. Báo cáo từ Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) cho biết, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao với chỉ số HDI năm 2023 đạt 0,766 – đứng thứ 93 trên tổng số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Giai đoạn 1990 – 2023, chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,499 lên 0,766, tăng 53,5%; tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng 5,56 tuổi; tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người tăng 475,7%9. Điều này cho thấy,chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đã không ngừng tăng lên.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cũng đã được quan tâm, chú trọng. Các doanh nhân giỏi, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng đông đảo, đóng góp quan trọng cho sự phát triển đất nước. Hiện nay, lực lượng lao động Việt Nam có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã thu hút và phát huy hiệu quả cao của một số ngành, lĩnh vực, như: bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, công nghiệp đóng tàu, năng lượng, y tế, giáo dục và xuất khẩu. Lao động người Việt Nam được đánh giá là có nhiều tư chất thông minh và sáng tạo, nhạy bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức.
Mặc dù, có sự cải thiện rõ rệt về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, song so với yêu cầu chuyển đổi số, nguồn nhân lực và quá trình quản lý, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
(1) Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực tuy được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thể hiện tỷ lệ người lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi số. Trong tổng số nguồn nhân lực của Việt Nam, mới có xấp xỉ 1,2 triệu lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhưng nhân lực tính từ cao đẳng trở lên chỉ khoảng 550.000 người. Như vậy, trong cơ cấu nguồn nhân lực, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin trên tổng lao động của nền kinh tế Việt Nam đạt hơn 1%. Đây là tỷ lệ tương đối thấp so với các quốc gia, như: Mỹ (4%), Hàn Quốc (2,5%), Ấn Độ (1,78%)10. Bên cạnh đó, mức độ cải thiện và chênh lệch về trình độ học vấn là đáng kể giữa khu vực thành thị và nông thôn, là dấu hiệu cho thấy sự phân cấp, mất cân đối nguồn nhân lực giữa các vùng miền và tất yếu sẽ kéo theo chênh lệch mức sống dân cư, về phát triển kinh tế – xã hội giữa các khu vực và có thể xem là lỗ hổng lớn về chất lượng lao động của Việt Nam hiện nay. Nguồn nhân lực chất lượng cao đang thiếu hụt trầm trọng và mới chỉ đáp ứng được gần 40% nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực trẻ sau khi ra trường chưa thể làm việc ngay mà vẫn cần quá trình đào tạo, bồi dưỡng thêm.
Các kỹ năng sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ của đội ngũ nhân lực còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, không chỉ thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin mà rất nhiều cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và đông đảo người dân còn thiếu kỹ năng để tham gia chuyển đổi số. Việt Nam có điều kiện trong việc phát triển nguồn nhân lực số, song sự phát triển đó đang chưa tương xứng với tiềm năng.
(2) Sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, phân bổ lao động không đồng đều giữa các vùng, ngành kinh tế (lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm trên dưới 70%, tỷ lệ lao động – cả lao động giản đơn và chất lượng cao) chủ yếu tập trung ở các vùng đô thị, một số khu vực được coi là các trung tâm kinh tế lớn, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Trong khi, một số khu vực khác có nhu cầu lại rất khó thu hút lao động như các khu công nghệ tại miền Trung, vùng Đông Nam Bộ, các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước…
(3) Thiếu cơ chế, chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực quốc gia hướng tới một số ngành, lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh. Định hướng các lĩnh vực ngành nghề còn mờ nhạt, thiếu sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và thị trường lao động. Điều đó dẫn đến tình trạng vừa thừa và vừa thiếu nhân lực tại một số lĩnh vực, ngành nghề và địa phương.
(4) Năng lực đào tạo nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực đáp ứng khả năng chuyển đổi số còn hạn chế. Theo báo cáo của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, đến nay, Việt Nam có khoảng hơn 240 trường đại học, trong đó gần 160 trường có chuyên ngành đào tạo kỹ thuật: công nghệ thông tin, điện tử – viễn thông, an toàn thông tin. Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này vào khoảng hơn 53.000 (nếu tính cả đào tạo cao đẳng, trung cấp thì con số này vào khoảng hơn 65.000). Với năng lực đào tạo này, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật cao để thực hiện chuyển đổi số, trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ngày càng cao để thực hiện chuyển đổi số.
4. Một số giải pháp trọng tâm
Thứ nhất, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực thông qua nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo.
Định hướng giáo dục theo nhu cầu nhằm tạo ra sự cân bằng trong đào tạo và sử dụng nhân lực ở các ngành nghề, vùng, miền và các thành phần kinh tế. Hệ thống giáo dục quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Các chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cần được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; bên cạnh các kiến thức trong sách vở, người học cần được thực hành nhiều hơn cũng như cần được trang bị thêm các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề, ưu tiên tập trung các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; rà soát, chỉnh sửa các danh mục thiết bị đã ban hành theo hướng tiếp cận với các nước trong khu vực; áp dụng tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Rà soát, thống nhất các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; xây dựng các cơ chế, quy định về bảo đảm chất lượng; các cơ chế, quy định và phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo nhân lực trẻ có kỹ năng nghề cao, đáp ứng yêu cầu nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể, tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm; hình thành các trường chất lượng cao, các trung tâm quốc gia, trung tâm vùng đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao có tính chất hạt nhân, dẫn dắt, lan tỏa và thực hiện liên kết vùng hiệu quả, đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ năng nghề cao của một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn; phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao gắn với các ngành nghề mới, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, kỹ năng mới, kỹ năng tương lai; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, các chương trình đào tạo kỹ năng nghề cao cho người nước ngoài tại Việt Nam; đánh giá, nhân rộng đào tạo theo các chương trình chuyển giao từ nước ngoài; áp dụng công nghệ đào tạo, nhân rộng các mô hình đào tạo tiên tiến của các nước phát triển; thí điểm mời giảng viên nước ngoài giảng dạy một số ngành, nghề chất lượng cao theo chuẩn quốc tế.
Tiếp tục đa dạng hóa, đổi mới căn bản phương thức tổ chức đào tạo theo tiếp cận phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất thanh niên; khai phóng tiềm năng, khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực vận dụng kiến thức, kỹ năng của thanh niên vào thực tiễn nghề nghiệp; đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp có sự tham gia của doanh nghiệp đối với các chương trình chất lượng cao…
Thứ ba, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực toàn diện; tập trung vào việc đào tạo và hướng đến các điểm chung trong việc phát triển nhân sự trong các lĩnh vực công và nhân sự trong doanh nghiệp ứng dụng chuyển đổi số. Người lao động cần có được các kỹ năng kỹ thuật cũng như sự kết hợp năng lực số (ví dụ như phân tích dữ liệu lớn, mạng bảo mật, truyền thông xã hội) với các kỹ năng mềm để cải thiện khả năng đáp ứng, thay thế linh hoạt giữa các thành phần kinh tế và nghề nghiệp. Chú trọng công tác nghiên cứu phát triển tại các cơ sở đào tạo công nghệ thông tin để phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao. Cần có chính sách thu hút lao động công nghệ thông tin bằng các cơ chế đãi ngộ, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời, thu hút chuyên gia công nghệ số là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài.
Thứ tư, xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn, đào tạo lại công nghệ thông tin. Cần có chính sách hỗ trợ và thiết kế các chương trình đào tạo cho các đối tượng khi tham gia đào tạo lại, đào tạo và bồi dưỡng nâng cao chuyên môn và kỹ năng cho người lao động. Đào tạo ngắn hạn nhằm trang bị các kiến thức kỹ năng công nghệ mới cho các đối tượng sinh viên đang học tại các cơ sở đào tạo, sinh viên đã tốt nghiệp nhưng chưa kiếm được việc làm và những người đang làm tại các doanh nghiệp, tổ chức để nhanh chóng tăng số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Cần tổ chức các chuyên đề tập huấn kiến thức về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao kiến thức, nghiệp vụ quản lý nhà nước trên nền tảng chuyển đổi số cho các cấp lãnh đạo từ trung ương đến các cấp địa phương. Thông qua các lớp tập huấn nhằm thúc đẩy chuyển đổi số đến từng hộ gia đình, từng người dân gắn với cuộc sống của người dân; tạo lập hành vi, thói quen số cho người dân trên môi trường số, thúc đẩy người dân tiên phong sử dụng nền tảng số, công nghệ số.
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Cần thiết lập các mạng lưới toàn cầu kết nối với công nghệ thế giới bằng cách nhập khẩu công nghệ cao, mời các chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy, tiến hành các hoạt động liên doanh đào tạo và nghiên cứu, phát triển… Cần có chính sách thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại các trường đào tạo nổi tiếng của thế giới (khuyến khích tự túc du học, Nhà nước cung cấp kinh phí để đào tạo lao động chuyên môn, kỹ thuật cao ở nước ngoài…) gắn với nhu cầu của đất nước.
Thứ sáu, khẩn trương triển khai xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai thí điểm mô hình “Giáo dục đại học số” tại một số trường đại học phù hợp. Xây dựng, ban hành bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học. Mục tiêu đặt ra cho 158 trường đại học có chương trình đào tạo công nghệ thông tin, điện tử – viễn thông và an toàn thông tin, thì chỉ có tổng số tầm hơn 80.000 chỉ tiêu tuyển sinh mỗi năm. Do đó, việc triển khai mô hình giáo dục đại học số là cần thiết.
5. Kết luận
Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ rất cấp thiết. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi người thực hiện phải hiểu biết thấu đáo về đặc điểm dân cư, truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những ưu điểm và nhược điểm của lực lượng lao động, từ đó có thể đề ra những chính sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu quả tốt nhất để nguồn nhân lực Việt Nam được phát huy đúng vai trò trọng tâm trong phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Chú thích:
1. Năm 2025 được dự báo là thời điểm AI thay thế nhiều công việc toàn thời gian: Tìm hiểu 10 kỹ năng nghề nghiệp không thể thiếu trong tương lai. https://advertisingvietnam.com/nam-2025-duoc-du-bao-la-thoi-diem-ai-thay-the-nhieu-cong-viec-toan-thoi-gian-tim-hieu-10-ky-nang-nghe-nghiep-khong-the-thieu-trong-tuong-lai-p25604
2. Nguyễn Thành Chung (2023). Vai trò của nguồn nhân lực số trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Thông tin và Truyền thông, số 7 (tháng7/2023).
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 62 – 63.
4, 5. Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023. https://www.gso.gov.vn, ngày 02/01/2024.
6. Thông cáo báo chí về tình hình dân số, lao động, việc làm quý IV và năm 2023. https://www.gso.gov.vn, ngày 29/12/2023
7, 8. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. https://www.mof.gov.vn, ngày 28/10/2021.
9. Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao. https://nhandan.vn/infographic-viet-nam-thuoc-nhom-cac-quoc-gia-co-muc-phat-trien-con-nguoi-cao-post879411.html
10. Tổ chức Lao động Quốc tế – ILO (2021). Báo cáo lao động việc làm toàn cầu năm 2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Đặng Thái Bình. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Tạp chí Quản lý nhà nước số 332, tháng 9/2023.
2. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược Quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
3. Chuyển đổi số quốc gia cần có nhân lực số. https://kinhtedothi.vn/chuyen-doi-so-quoc-gia-can-co-nhan-luc-so.html.
4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/03/14/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-cua-viet-nam-trong-dieu-kien-cach-mang-cong-nghiep-4-0-hien-nay/
5. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành công nghiệp, dịch vụ trong bối cảnh cạnh tranh thương mại hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/03/31/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-nganh-cong-nghiep-dich-vu-trong-boi-canh-canh-tranh-thuong-mai-hien-nay/
6. Phát triển nguồn nhân lực số trong tiến trình chuyển đổi số hiện nay.https://lyluanchinhtri.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-so-trong-tien-trinh-chuyen-doi-so-hien-nay-6578.html
7. Phát triển nhanh nguồn nhân lực cho chuyển đổi số. https://dangcongsan.vn/khoa-hoc/phat-trien-nhanh-nguon-nhan-luc-cho-chuyen-doi-so-652065.html.