Nguyễn Tuấn Anh
Học viên CH32E, Học viện An ninh nhân dân
(Quanlynhanuoc.vn) – Năng lực thực thi cứu nạn, cứu hộ của mỗi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là yếu tố quan trọng trong bối cảnh tình hình cháy, nổ, sự cố kỹ thuật, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích và những thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay. Về phương diện lý luận và thực tiễn, năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan khác nhau. Nghiên cứu các yếu tố tác động này giúp các chủ thể trong Công an nhân dân có những phương pháp quản lý phù hợp, nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Từ khóa: Cứu nạn, cứu hộ, an ninh phi truyền thống, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy.
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học có liên quan của các nhà khoa học và từ tình hình thực tiễn cứu nạn, cứu hộ có thể thấy, năng lực cứu nạn, cứu hộ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng và thái độ liên quan đến cứu nạn, cứu hộ, qua đó bảo đảm an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, hạn chế mức thấp nhất thiệt hại do sự cố, tai nạn, thiên tai, thảm họa gây ra.
Về tổng thể, năng lực cứu nạn, cứu hộ của cá nhân lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được cấu thành bởi các thành tố cơ bản, như: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Trong đó, kiến thức là tổng hợp những tri thức chung, tri thức cơ bản do mỗi cán bộ, chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có được nhờ bản thân tích lũy được qua quá trình học tập ở trường lớp, xã hội và thực tiễn quá trình công tác cứu nạn, cứu hộ.
Kỹ năng là quá trình vận dụng tri thức có được để thực hiện hiệu quả công việc cứu nạn, cứu hộ, kỹ năngđược hình thành từ kinh nghiệm cứu nạn, cứu hộ hay từ quá trình chuyển hóa từ kiến thức thành những hành vi thực tế. Thái độ là sự phản ánh tâm lý mà lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với những gì họ đang thực hiện với người khác và với bản thân liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân như là yêu, ghét, thích thú, hăng say… Thái độ làm việc là một thành tố cấu tạo nên năng lực cá nhân, có ảnh hưởng đến hiệu quả phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Xét về lĩnh vực thực thi công vụ, thái độ thực thi công vụ được thể hiện qua đạo đức công vụ và văn hóa ứng xử của mỗi cán bộ, chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Đặc biệt, với đặc thù của nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ của lực lượng Công an nhân dân thì ngoài các yếu tố trên, thái độ còn có thêm các yếu tố cơ bản, như:
(1) Thái độ chính trị, trong đó “xây dựng đội ngũ Cán bộ Công an nhân dân có bản lĩnh chính trị vững vàng” là nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng lực lượng Công an đã được xác định rõ tại các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, thái độ chính trị là yếu tố đánh giá cán bộ, chiến sĩ, cũng là tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
(2) Ý thức kỷ luật là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu, là quy luật khách quan, phổ quát nhất đối với tổ chức và hoạt động của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Ý thức kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là việc chấp hành nghiêm túc quy định của Đảng, Nhà nước, ngành Công an; nói và làm theo Hiến pháp và pháp luật, chấp hành nghiêm Điều lệnh Công an nhân dân; tạo nên sức mạnh trong công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng.
(3) Tinh thần trách nhiệm là ý thức thực hiện tốt nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ được giao, không ỉ lại, dựa dẫm hay đùn đẩy trách nhiệm. Đây là nguồn động lực thúc đẩy lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nỗ lực và hoàn thiện bản thân và nâng cao được các kỹ năng và trình độ chuyên môn để giải quyết nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ trong hoàn cảnh khó khăn nhất.
2. Yếu tố tác động đến năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ
Năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được hình thành và phát triển thông qua các con đường cơ bản, như: thông qua đào tạo, bồi dưỡng; thực tiễn công tác với những trải nghiệm; sự tự đúc rút, học hỏi của cán bộ, chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chịu sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan.
Một là, các yếu tố chủ quan.
(1) Thể lực biểu hiện qua sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Với đặc thù công việc đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải có thể lực sức khỏe cao để đáp ứng được nhiệm vụ. Một thể lực tốt là điều kiện để thực hiện công việc tốt, đặc biệt trạng thái sức khỏe và tinh thần khỏe mạnh tác động mạnh mẽ đến khả năng sáng tạo, giải quyết nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc cứu nạn, cứu hộ nhưng cũng trở sẽ thành mặt hạn chế, tiêu cực tới công tác cứu nạn, cứu hộ. Ngoài ra, với chức năng, nhiệm vụ đặc thù của lực lượng, thể lực là tiêu chí tuyển chọn Công an nhân dân và là tiêu chí đánh giá năng lực của đơn vị và cá nhân.
Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cần phải duy trì sinh hoạt cá nhân lành mạnh, khoa học để có trạng thái thể lực tốt, đáp ứng yêu cầu cứu nạn, cứu hộ trong tình hình mới.
(2) Động lực làm việc là yếu tố cá nhân tạo thành động cơ làm việc, thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thực hiện nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ hăng say hơn, năng suất cao hơn, hiệu quả tốt hơn. Động lực làm việc là những giá trị về vật chất (chế độ tiền lương, chế độ khen thưởng, nhà ở xã hội, phương tiện khoa học kỹ thuật phục vụ cứu nạn, cứu hộ…); giá trị tinh thần (sự ghi nhân, ủng hộ, động viên của xã hội, khen thưởng về tinh thần của cấp trên…); cơ hội thăng tiến phát triển sự nghiệp của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Do vậy, tạo động lực việc làm là yêu cầu quan trọng trong nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Đặc biệt, tạo động lực việc làm là kỹ năng cần thiết để các chủ thể có thẩm quyền nâng cao và phát huy năng lực cá nhân, tập thể trong cứu nạn, cứu hộ.
(3) Kinh nghiệm cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ là sự hiểu biết thông qua thực tiễn, do thực hành đem lại; là những bài học tích lũy trong hoạt động cứu nạn, cứu hộ trong thực tiễn. Kinh nghiệm được đánh giá bằng thâm niên công tác và hiệu quả công việc mà cán bộ, chiến sĩ đã trải nghiệm trong thực tiễn cuộc sống đặc biệt là những kinh nghiệm xử lý công vụ. Kinh nghiệm được hình thành trong hoạt động cứu nạn, cứu hộ là yếu tố nuôi dưỡng cho năng lực cứu nạn, cứu hộ của của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Những cán bộ, chiến sĩ mới ra trường hoặc mới nhận công tác ở lĩnh vực chuyên môn mới… còn thiếu kinh nghiệm làm việc sẽ gặp khó khăn nhất định, bị hạn chế trong cứu nạn, cứu hộ.
Để nâng cao kinh nghiệm thực tiễn công vụ, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ cần học hỏi kinh nghiệm của các từ các thế hệ cán bộ trước và thường xuyên trau rồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng trong cứu nạn, cứu hộ để tự đúc rút kinh nghiệm cho bản thân.
Hai là, các yếu tố khách quan.
(1) Yếu tố chính trị, pháp luật. Lực lượng Công an nhân dân nói chung trong đó có lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do Đảng xây dựng, giáo dục và rèn luyện, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Do vậy, giáo dục “chính trị tư tưởng” là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục để đập tan âm mưu “Phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhân dân” của các thế lực thù địch.
Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về nâng cao năng lực nói chung và năng lực cứu nạn, cứu hộ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là những cơ sở chính trị, pháp lý cho hoạt động nâng cao năng lực đáp ứng yêu cầu tư duy mới về xây dựng lực lượng Công an nhân dân “thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới, công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải tiếp tục được đổi mới và thực sự trở thành động lực cho sự phát triển đất nước đòi hỏi các chủ thể xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ PCCC và cứu nạn, cứu hộ cần: quán triệt đầy đủ, cụ thể các quan điểm chỉ đạo, 7 nhiệm vụ giải pháp tại Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; tăng cường rà soát để kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luậtliên quan đến xây dựng lực lượng Công an nhân dân nói chung và năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nói riêng.
(2) Chế độ, chính sách trong Công an nhân dân vừa là công cụ thu hút, vừa là động lực cho cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ để hoàn thành tốt nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ. Chế độ chính sách bao gồm các chế độ cơ bản, như: chế độ thăng cấp; bậc hàm; nâng lương, chế độ hưu trí, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, chế độ bảo hiểm bắt buộc, chế độ nghỉ dưỡng trong Công an nhân dân, chế độ chính sách đối với sĩ quan, hạ sĩ quan công an nhân dân nghỉ hưu; hy sinh và các chế độ, chính sách thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao khác. Chế độ, chính sách thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước góp phần tạo động lực, nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
(3) Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là quá trình trang bị, bồi dưỡng, huấn luyện tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ, thái độ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ trong tình hình mới.
Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng là xây dựng, phát triển và nâng cao năng lực cho cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ. Hoạt động đào tạo cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải hướng vào thực hiện các mục tiêu cụ thể của Bộ Công an đã định hướng và xuất phát từ nhu cầu đào tạo. Đặc biệt, quá trình đào tạo, bồi dưỡng gắn với yêu cầu và sử dụng hiệu quả trong công tác, tức là những kỹ năng, nghiệp vụ cứu nạn, cứu hộ mà cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đạt được trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải được ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn cứu nạn, cứu hộ.
(4) Môi trường làm việc, bao gồm: môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Môi trường bên ngoài là toàn bộ các yếu tố bên ngoài tổ chức tác động đến các cá nhân, tổ chức, như: môi trường xã hội, văn hóa, kinh tế, pháp luật… Môi trường bên trong là toàn bộ yếu tố nội hàm của cơ quan, đơn vị bao gồm: văn hóa của các cơ quan; các mối quan hệ đồng nghiệp; cơ sở vật chất phục vụ công vụ; cán bộ, lãnh đạo chỉ huy… Môi trường làm việc tốt có ảnh hưởng tích cực đến mỗi cán bộ, chiến sĩ, qua đó phát huy năng lực cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Yêu cầu xây dựng môi trường cứu nạn, cứu hộ tốt là yêu cầu quan trọng mà mỗi đơn vị, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải quan tâm thực hiện để năng cao năng lực thực thi công vụ của cá nhân và của cả đơn vị. Trong quá trình xây dựng môi trường làm việc cần chú ý tới đặc thù của nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ và các quy định của Bộ Công an đòi hỏi các cơ quan, tổ chức đều phải xây dựng môi trường đặc thù, môi trường số và môi trường quốc tế.
(5) Phong cách lãnh đạolà hệ thống các phương pháp trong quản lý phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được cán bộ lãnh đạo, chỉ huy sử dụng để tác động đến cán bộ, chiến sĩ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cấp dưới nhằm đưa ra được các quyết định quản lý phù hợp với mục tiêu, yêu cầu công vụ. Phong cách lãnh đạo, chỉ huy được sử dụng khoa học, phù hợp với môi trường công vụ sẽ tạo động lực cho cán bộ, chiến sĩ cấp dưới phát huy năng lực, sở trường trong công tác.
(6) Bảo đảm các điều kiện bảo đảm về cơ sở vật chất phục vụ hiệu quả nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ. Thực tiễn cho thấy, kỹ năng, năng lực chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ có được trau dồi và để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao luôn rất cần được rèn luyện trong môi trường làm việc chất lượng, nghiêm túc, thậm chí khắc nghiệt. Trong môi trường rèn luyện, ngoài các yếu tố do chủ quan con người, cần phải trang bị hệ thống cơ sở vật chất bảo đảm yêu cầu tối thiểu cho thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo quy định của Bộ Công An.
3. Yêu cầu nâng cao năng lực của cán bộ, chiến sĩ cứu nạn, cứu hộ
Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về các yếu tố tác động tới năng lực thực thi công vụ. Cán bộ, chiến sĩ có nhận thức đầy đủ, đúng đắn mới ý thức để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực và dự báo được chiều hướng tác động của các yếu tố để chủ động sử dụng hiệu quả các phương pháp nâng cao năng lực của bản thân chiến sĩ và tập thể đơn vị; phù hợp với yêu cầu thực tiễn bảo đảm an ninh, trật tự.
Nâng cao nhận thức phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với các hình thức tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng phong phú; trong đó, đề cao trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy. Xây dựng được nội dung chương trình, tài liệu, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cứu nạn, cứu hộ theo hướng đổi mới, cập nhập thực tiễn, chú trọng đào tạo kiến thức kết hợp với thực hành để phát triển kỹ năng tay nghề.
Hai là, thường xuyên sơ kết, tổng kết các yếu tố tác động tới năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, qua đó đúc rút bài học thực tế, những kết quả đạt được cũng như những bất cập, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trong công tác cứu nạn, cứu hộ, phân tích được các yếu tố nào là chính, yếu tố nào là phụ và mối quan hệ giữa các yếu tố tác động.
Từ việc nhận diện các yếu tố tác động đến năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có thể dự báo để tập trung các nguồn lực vào những yếu tố quan trọng nhất, loại bỏ hoặc hạn chế tiêu cực, phát huy tính tích cực trong nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong thời gian tới.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học ứng dụng về các yếu tố tác động đến năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần hoàn thiện lý luận về năng lực năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nói riêng và quản lý nguồn nhân lực Công an nhân dân nói chung.
Để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học đòi hỏi các chủ thể quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Thời gian tới, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, lý luận có liên quan đến quản lý nguồn nhân lực một cách khoa học và hợp lý để khai thác mọi nguồn trí tuệ từ đội ngũ cán bộ lý luận đang làm việc, đã về hưu hoặc đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện công tác tổ chức cán bộ ở các cấp.
4. Kết luận
Như vậy, các yếu tố tác động đến năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ luôn có từ cả hai góc độ tích cực và tiêu cực và có tính thời điểm. Nhận diện một cách đầy đủ và đúng các yếu tác động tới năng lực cứu nạn, cứu hộ là vấn đề hết sức quan trọng, quyết định tới hiệu quả của hoạt động nâng cao năng lực cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.