Phạm Trần Quỳnh Mai
NCS Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 là tư tưởng về khát vọng, quyết tâm giành độc lập dân tộc; tư tưởng “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” và ý chí kiên quyết giữ vững nền độc lập vừa giành được. Bài viết làm rõ ý nghĩa thời đại tư tưởng của Chủ tịch Hô Chí Minh đối với nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc Việt Nam hiện nay, bao gồm: xây dựng, bồi dưỡng ý chí, quyết tâm bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và quán triệt phương châm tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” trong bối cảnh mới.
Từ khóa: Tự lực, tự cường, Cách mạng tháng Tám, độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
1. Đặt vấn đề
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc, là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh cách mạng giai đoạn 1930 – 1945, thể hiện rõ nghệ thuật chớp thời cơ và sức mạnh tự lực, tự cường của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thắng lợi ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường giữ vai trò như một nền tảng tinh thần, là động lực thúc đẩy hành động cách mạng.
Ngày nay, cục diện thế giới đang có chuyển biến nhanh, phức tạp chưa từng có theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng và phân tuyến mạnh. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều thách thức mới có tính chất phức tạp hơn1, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục củng cố nội lực và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 để rút ra những giá trị, bài học đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc trong bối cảnh mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
2.1. Tư tưởng về khát vọng, quyết tâm giành độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc là nhu cầu, khát vọng thiêng liêng của mọi quốc gia, dân tộc. Đấu tranh cho độc lập dân tộc là một nội dung quan trọng, cơ bản của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đối với cách mạng Việt Nam, đó vừa là mục tiêu nền tảng, vừa là tiền đề cho giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm ấy, trong quá trình lãnh đạo và vận động cho Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định độc lập dân tộc là mục tiêu trung tâm, có ý nghĩa quyết định.
Trong Thư gửi ông Tam, Người viết: “Ông hãy tin rằng chúng tôi đã chiến đấu và sẽ chiến đấu cho tới khi chúng tôi đạt được cái mà chúng tôi mong muốn: Độc lập dân tộc”2. Khát vọng và quyết tâm giành độc lập dân tộc không chỉ là giá trị tinh thần mà còn là động lực chính trị to lớn, định hình hành động cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Trong Thư gửi Trung úy Phen, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi cũng tin rằng sớm hay muộn chúng tôi cũng sẽ đạt được mục đích của mình, bởi vì mục đích đó là chính nghĩa. Và đất nước chúng tôi sẽ độc lập”3.
2.2. Tư tưởng “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”
Đây là nội dung cơ bản, cốt lõi, giữ vị trí trung tâm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường; đồng thời là sự kế thừa và phát triển truyền thống tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm.
Trên cơ sở quan điểm mác-xít về nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển và quan điểm về dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”4.
Trong bối cảnh tình thế và thời cơ cách mạng xuất hiện vào tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thành quan điểm chỉ đạo chiến lược là “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Người nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”5. Tư tưởng này thể hiện ở ba khía cạnh cốt lõi: đoàn kết dân tộc là nền tảng của độc lập, tự do; phát huy sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Mặt trận Việt Minh nhằm quy tụ và khơi dậy nội lực dân tộc và tổ chức phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Tư tưởng ấy khẳng định niềm tin vào sức mạnh tự thân của dân tộc Việt Nam, coi đó là động lực quyết định để giành và giữ vững độc lập, tự do.
2.3. Tư tưởng về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc vừa mới giành được của toàn thể dân tộc Việt Nam
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945, đặt dấu chấm hết cho chế độ thực dân tồn tại gần 100 năm, chế độ quân chủ tồn tại mấy mươi thế kỷ. Tuy nhiên, ngay sau khi giành được độc lập, đất nước lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” với những thách thức nghiêm trọng cả về chính trị, kinh tế và văn hóa. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải củng cố nội lực, khơi dậy ý chí và quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng.
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định “thoát ly hẳn”, “xóa bỏ hết”, “xóa bỏ tất cả” những “di sản” và “đặc quyền” của thực dân Pháp, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ của một dân tộc đã vùng dậy làm chủ vận mệnh của mình. Toàn thể nhân dân Việt Nam, trên dưới một lòng, quyết liệt chống lại mọi âm mưu xâm lược, dù phải hy sinh, gian khổ vẫn kiên định bảo vệ nền độc lập thiêng liêng. Trong Tuyên ngôn Độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng”: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”6.
3. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường trong bối cảnh mới
Một là, xây dựng, bồi dưỡng ý chí, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong bối cảnh mới.
Tinh thần tự lực, tự cường không chỉ là kết tinh giá trị truyền thống dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, chưng cất mà còn là triết lý, phương châm hành động nhằm chỉ đạo, dẫn dắt cách mạng Việt Nam. Tự lực, tự cường còn là tư thế chủ động, là phương thức bảo đảm độc lập lâu dài trong mọi điều kiện lịch sử. Để tinh thần tự lực, tự cường phát huy được giá trị, chuyển hóa thành sức mạnh nội lực cần xây dựng, bồi dưỡng ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong bối cảnh mới.
Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đặt ra yêu cầu “kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện có hiệu quả chủ trương “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”7. Do đó, cần tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, trách nhiệm công dân; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, dân chủ, kỷ cương; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khuyến khích đổi mới sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy vai trò của các thiết chế xã hội trong giáo dục tinh thần tự lực, tự cường dân tộc, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, thế hệ trẻ và các giai tầng khác trong xã hội để mỗi cá nhân phấn đấu, vươn lên, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Hai là, quán triệt sâu sắc phương châm tự lực, tự cường, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” trong bối cảnh mới.
Tinh thần tự lực, tự cường với phương châm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là mệnh lệnh chính trị của thời kỳ giành chính quyền mà còn là nguyên lý chỉ đạo mang tính phương pháp luận cho toàn bộ tiến trình cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, độc lập dân tộc không chỉ là quyền tự quyết về chính trị mà còn bao hàm yêu cầu giữ vững chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và củng cố nền độc lập, tự chủ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, quốc phòng – an ninh và đối ngoại. Dù nội hàm của độc lập dân tộc ngày nay đã được mở rộng hơn so với 80 năm trước, song tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường dân tộc trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn giữ nguyên giá trị định hướng. Đó là điểm tựa tư tưởng, có ý nghĩa tham chiếu, giúp định hình tư duy chiến lược trong việc xây dựng năng lực tự chủ quốc gia và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc trong bối cảnh mới.
(1) Việc quán triệt và vận dụng tư tưởng tự lực, tự cường có ý nghĩa thực tiễn với việc phát huy nội lực dân tộc hiện nay. Để tạo nguồn lực đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, Đảng chủ trương “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước…”8. Việc phát huy nội lực không chỉ dựa vào nguồn lực vật chất mà còn phải chú trọng nguồn lực con người và nguồn lực văn hóa. Tinh thần tự lực, tự cường dân tộc là đường dẫn, cầu nối khơi dậy mạnh mẽ “sức dân”, “lòng dân” và “trí dân”, hình thành một hệ giá trị phát triển, lấy nội lực làm nền tảng, ngoại lực làm hỗ trợ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại. Đảng chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh của Nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thế trận lòng dân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa…”9.
(2) Cần thực hiện nhất quán quan điểm tự chủ trên cơ sở lấy lợi ích quốc gia – dân tộc làm mục đích cao nhất, bảo đảm nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế làm phương thức thực hiện. Đảng xác định: “Tự chủ về chiến lược và mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong thực hiện, bảo đảm và bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế”10. Đồng thời, tiếp tục xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đổi mới hệ thống chính trị, tập trung giữ vững ổn định chính trị; bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với điều kiện Việt Nam; bảo đảm quốc phòng – an ninh, đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa;… giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững và củng cố môi trường hòa bình để xây dựng phát triển đất nước11.
4. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường không chỉ là kim chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn là định hướng mang tầm chiến lược cho công cuộc bảo vệ, phát triển đất nước hiện nay. Tinh thần tự lực, tự cường, nhất là phương châm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” tiếp tục là chỉ dẫn quan trọng trong bảo vệ độc lập dân tộc trên tất cả các lĩnh vực. Ngày nay, trước những nhân tố mới của thời đại, tư tưởng tự lực, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa sâu sắc. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn mối quan hệ giữa tự lực, tự cường và năng lực thích ứng của quốc gia trong các lĩnh vực mới, như: chuyển đổi số, an ninh phi truyền thống và bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu tất yếu, hợp quy luật.
Chú thích:
1, 7, 8, 9, 10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 23, 25, 21, 26, 26, 26, 44.
2, 3, 5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 593, 592, 596.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 138.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 3.



