Lê Thị Hằng
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
TS. Trần Hữu Phước
Công ty cổ phần Thương mại Y dược MPH
(Quanlynhanuoc.vn) – Ngành Mía đường Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất. Tuy nhiên, sản xuất mía đường hiện nay còn manh mún, chi phí cao, công nghệ lạc hậu, thiếu liên kết chuỗi và nhân lực chưa chuyên sâu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành Mía đường cần phải quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, đẩy mạnh cơ giới hóa, đa dạng hóa sản phẩm từ mía đồng thời hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ và xây dựng liên kết bền vững giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nông dân.
Từ khóa: Ngành Mía đường; cơ chế chính sách; liên kết bền vững; Nhà nước – doanh nghiệp – nông dân.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam cùng khu vực với Thái Lan – một nước có thế mạnh về ngành Mía đường trong khu vực nói riêng và thế giới nói chung. Điều này khiến ngành Mía đường Việt Nam phải trực tiếp đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp mía đường các nước khác trong khi chưa có chính sách hỗ trợ đầy đủ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp lẫn người nông dân. Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi nhất định để ngành Mía đường phát triển và có lợi thế cạnh tranh hiệu quả trên thị trường thông qua các chính sách khuyến khích, định hướng hoạt động, như: việc hỗ trợ vốn cho nông dân và mức thuế nhập khẩu đường… Tuy nhiên, để có được đánh giá chính xác về tình hình phát triển ngành Mía đường Việt Nam cũng như định hướng tháo gỡ khó khăn thì cần phải có những kết nối chặt chẽ giữa Nhà nước – nhà máy và người nông dân để đưa ra những giải pháp phù hợp với giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng ngành Mía đường Việt Nam giai đoạn hiện nay
Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO và ký nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), đặt ngành Mía đường trước thách thức cạnh tranh với đường nhập khẩu. Một số doanh nghiệp lớn, như: Thành Công – Biên Hòa (SBT); Quảng Ngãi (QNS); Lam Sơn (Lasuco)… bắt đầu mở rộng quy mô, tái cơ cấu theo hướng liên kết vùng nguyên liệu – chế biến – tiêu thụ. Công nghệ chế biến bắt đầu được nâng cấp, một số nhà máy sản xuất điện sinh khối từ bã mía, ethanol, phân bón hữu cơ…
Từ năm 2020, Việt Nam chính thức thực hiện cam kết ATIGA (Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN), dỡ bỏ hạn ngạch và thuế nhập khẩu đường từ ASEAN, dẫn đến đường Thái Lan ồ ạt tràn vào Việt Nam. Nhiều nhà máy nhỏ, kém hiệu quả đã buộc phải đóng cửa hoặc sáp nhập, sản lượng mía giảm mạnh ở một số địa phương. Ngành Mía đường đứng trước thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội để thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, liên kết sản xuất và phát triển sản phẩm giá trị tăng cao.
a. Sản lượng, diện tích và năng suất mía đường1
Bảng 1. Sản lượng, diện tích và năng suất mía đường giai đoạn 2020 – 2025
| Năm | Sản lượng (tấn) | Diện tích (ha) | Năng suất |
| 2020 – 2021 | 6.739.417 | 152.891 | 44.08 |
| 2021 – 2022 | 7.532.728 | 124.753 | 60.38 |
| 2022 – 2023 | 9.645.454 | 141.906 | 67.97 |
| 2023 – 2024 | 11.204.789 | 163.019 | 68.73 |
| 2024 – 2025 | 12.428.930 | 189.360 | 65.64 |
Bảng 1 cho thấy, từ năm 2020 – 2025, diện tích trồng mía tăng; sản lượng mía đường tăng từ hơn 6.739.417 tấn lên 12.428.930 tấn, tăng gần gấp đôi trong 5 năm. Trong đó, giai đoạn 2020 – 2021: diện tích trồng khá cao nhưng sản lượng và năng suất thấp. Giai đoạn 2021 – 2022, diện tích trồng bị thu hẹp nhưng sản lượng tăng, năng suất tăng 16.3%, tăng cao nhất trong giai đoạn 2020 – 2025 và từ năm 2022 đến 2025 diện tích trồng mía dần được khôi phục. Trong giai đoạn 2024 – 2025, tuy sản lượng và diện tích đều tăng nhưng năng suất lại giảm nhẹ so với giai đoạn 2023 – 2024 do ngành Nông nghiệp nói chung và ngành Mía đường nói riêng phải đối phó với hiện tượng La-nina, thời tiết nắng hạn kéo dài, mưa ít nên cây mía phát triển chậm.
b. Về giá thu mua mía tại ruộng2

Giá mua mía tại ruộng của các nhà máy mía đường với người trồng tăng ổn định qua các năm: từ 938.766 đồng/tấn giai đoạn 2020 – 2021 lên 1.267.933 đồng/tấn giai đoạn 2023 – 2024. Giai đoạn này giá mua mía tăng khiến cho diện tích trồng mía cũng tăng theo và duy trì nguồn cung nguyên liệu. Tuy nhiên, đến năm 2024 – 2025, giá mía giảm nhẹ xuống còn 1.252.782 đồng/tấn. Sự giảm nhẹ trong giá thu mua mía tại ruộng giai đoạn 2024 – 2025 cảnh báo khả năng biến động của thị trường.
c. Về sản lượng đường của Việt Nam và một số nước trên thế giới3
Bảng 2: Sản lượng đường Việt Nam và thế giới giai đoạn 2020 – 2025
Đơn vị: Triệu tấn
| Quốc gia | 2020 – 2021 | 2021 – 2022 | 2022 – 2023 | 2023 – 2024 | 2024 – 2025 |
| Brazil | 38,5 | 32,1 | 43,3 | 46,5 | 42,9 |
| Ấn Độ | 31,5 | 35,9 | 32,8 | 32,2 | 26,1 |
| EU | 13,8 | 15,4 | 13,1 | 14,8 | 15,8 |
| Trung Quốc | 10,7 | 9,6 | 8,1 | 10 | 11,2 |
| Thái Lan | 7,1 | 10,1 | 10,8 | 8,8 | 10,1 |
| Hoa Kỳ | 7,7 | 7,6 | 7,8 | 7,7 | 7,8 |
| Mexico | 5,7 | 6,2 | 5,2 | 4,7 | 4,8 |
| Pakistan | 5,8 | 7,5 | 7,1 | 6,8 | 5,7 |
| Australia | 4,3 | 3,8 | 4,2 | 3,6 | 3,8 |
| Việt Nam | 0,69 | 0,75 | 0,94 | 1,11 | 1,27 |
| Khác | 43,11 | 43,55 | 42,16 | 45,1 | 45,3 |
| Tổng | 168,9 | 172,5 | 175,5 | 181,3 | 174,8 |
Có thể thấy so với thế giới, sản lượng đường của Việt Nam là rất nhỏ, Sản lượng có tăng từ 0,69 triệu tấn năm 2020 lên 1,27 triệu tấn vào năm 2025 (tăng 0,58 triệu tấn) nhưng so với tổng sản lượng đường của thế giới chỉ chiếm 0,4 – 0,8%. Tuy nhiên, sản lượng đường của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, cho thấy sự phục hồi rõ rệt của ngành. Trong giai đoạn 2024 – 2025, sản lượng dự kiến đạt gần gấp đôi so với giai đoạn 2020 – 2021.
Mức độ tăng trưởng liên tục của sản lượng đường tại Việt Nam phản ánh rõ nỗ lực tái cơ cấu ngành Mía đường, đầu tư vào công nghệ và áp dụng hiệu quả các chính sách của Nhà nước trong sản xuất và chống gian lận thương mại từ đường nhập khẩu. Tuy vậy, ngành Mía đường còn có những hạn chế cần khắc phục
Một là, quy mô sản xuất nhỏ, thiếu tính liên kết. Hiện nay, phần lớn diện tích mía vẫn thuộc các hộ nông dân nhỏ lẻ, tự canh tác, không theo vùng quy hoạch tập trung. Mối liên kết giữa người trồng mía và nhà máy lỏng lẻo dẫn đến tình trạng “tranh mua – tranh bán”. Vùng nguyên liệu không ổn định làm nguyên liệu biến động liên tục, khó kiểm định chất lượng và lượng mía cung cấp. Các nhà máy mía khó lên kế hoạch sản xuất dài hạn do sự không ổn định của vùng nguyên liệu. Nhiều nhà máy nhỏ, năng suất thấp, phải đóng cửa hoặc sáp nhập vì không đủ khả năng cạnh tranh.
Hai là, chi phí sản xuất cao, giá thành không cạnh tranh. Giá thành sản xuất đường tại Việt Nam cao hơn các nước ASEAN, như: Thái Lan, Philippines từ 10 – 30%. Nguyên nhân do: (1) Quy trình trồng và chăm sóc mía còn thủ công, chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm của người trồng; không có tiêu chuẩn thống nhất trong bón phân, phòng trừ sâu bệnh dẫn đến năng suất mía thấp và chất lượng nguyên liệu không đồng đều. (2) Việc thu hoạch phần lớn vẫn là thủ công, tốn nhiều thời gian và công sức, chi phí lao động tăng cao. (3) Chi phí vận chuyển mía đến nhà máy tăng do vùng nguyên liệu mía phân tán, không tập trung…
Ba là, cạnh tranh khốc liệt từ đường nhập khẩu và buôn lậu. Nhập lậu đường đang là thách thức đối với ngành Mía đường Việt Nam hiện nay. Ngành đường nội địa đã bị thiệt hại rất lớn bởi sức ép từ đường Thái Lan bán phá giá, nhập lậu và gian lận thương mại.
Bốn là, sản phẩm thay thế. Các sản phẩm tạo ngọt thay thế trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp lẫn tiêu dùng hằng ngày, như: siro ngô fructose cao (HFCS) được sử dụng phổ biến trong ngành thực phẩm và đồ uống; các chất tạo ngọt có nguồn gốc tự nhiên, như: Stevia, Monk Fruit, mật ong, đường dừa, đường thốt nốt… Xu hướng tiêu dùng hiện đại đang đặt ra yêu cầu mới đối với ngành Mía đường, không chỉ cạnh tranh về giá mà còn phải thích ứng với thị hiếu đang thay đổi và yêu cầu cao hơn về giá trị dinh dưỡng, tính an toàn cũng như yếu tố bền vững môi trường.
Năm là, công nghệ chế biến chưa đồng đều. Hiện nay tỷ lệ tái chế phụ phẩm mía (bã mía, bùn lọc, rỉ đường…) thành điện, ethanol, phân bón… còn thấp so với tiềm năng. Việc không tận dụng tốt phụ phẩm không chỉ gây lãng phí mà còn bỏ lỡ cơ hội tăng doanh thu và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, sự chênh lệch trình độ công nghệ giữa các nhà máy đang tạo ra sự phân hóa trong năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành Mía đường.
Sáu là, lao động và nhân lực chưa chuyên sâu. Lao động trong ngành Mía đường vẫn chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác và công nghệ sinh học. Điều này dẫn đến năng suất mía thấp, không đồng đều giữa các vùng.
Bảy là, chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ. Các chính sách hỗ trợ giá mía, trợ cấp giống, phân bón đã được ban hành, tuy nhiên mang tính ngắn hạn và thiếu gắn kết với quy hoạch tổng thể ngành. Giá mía nguyên liệu chủ yếu được thỏa thuận giữa nông dân và nhà máy, không có cơ chế định giá mang tính pháp lý hoặc công cụ thị trường ổn định (như: sàn giao dịch nông sản, hợp đồng tương lai). Thiếu cơ chế giá tối thiểu (giá sàn) hay hợp đồng dài hạn ổn định, dẫn đến tình trạng giá mía bấp bênh, phụ thuộc vào biến động thị trường đường thế giới hoặc khả năng tiêu thụ đầu ra của nhà máy.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất, quy hoạch vùng nguyên liệu gắn với nhà máy, áp dụng mô hình “cánh đồng lớn”. Đây là một hướng đi đúng và cần thiết để ngành Mía đường Việt Nam nâng cao hiệu quả, giảm chi phí, tăng năng suất và cạnh tranh tốt hơn trong điều kiện hội nhập quốc tế. Để thực hiện cần có sự đồng bộ từ đất đai, cơ chế chính sách, liên kết nhà máy ‑ nông dân và thị trường. Quy hoạch vùng nguyên liệu là việc xác định khu vực, diện tích, vị trí đất đai phù hợp để trồng mía nguyên liệu phục vụ cho nhà máy đường, bảo đảm chất lượng nguyên liệu ổn định, tập trung hóa diện tích, thuận lợi đầu tư cơ sở hạ tầng (tưới tiêu, giao thông nội đồng). Việc quy hoạch vùng nguyên liệu giúp rút ngắn khoảng cách vận chuyển, giảm thời gian thu hoạch, hạn chế tối thiểu tổn thất, bảo đảm nhà máy có nguồn nguyên liệu ổn định, giảm rủi ro bị thiếu nguyên liệu, tăng công suất sử dụng nhà máy.
Đồng thời, mối liên kết nhà máy – nông dân – địa phương được chặt chẽ hơn. Trách nhiệm của nhà máy được nâng lên khi ký hợp đồng nguyên liệu với nông dân, hỗ trợ giống, phân bón, kỹ thuật, thu mua theo cam kết giúp người trồng mía yên tâm sản xuất, từ đó xây dựng vùng nguyên liệu ổn định và bền vững tạo nên chuỗi liên kết bền vững giữa các doanh nghiệp mía đường, người trồng mía và các đơn vị cung ứng, bảo đảm sự hợp tác và chia sẻ lợi ích. Khuyến khích nông dân hợp tác, thuê mượn đất, hoặc hình thành hợp tác xã, tổ hợp tác để tạo diện tích lớn.
Thứ hai, tái cấu trúc ngành theo hướng đa dạng hóa sản phẩm. Cuộc cách mạng 4.0 đang mở ra cơ hội mới để Việt Nam bước vào kỷ nguyên năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học. Đó cũng là cánh cửa mới cho ngành Mía đường. Mía không chỉ sản xuất đường mà còn dùng để sản xuất năng lượng sinh học, hỗ trợ công nghiệp đồng phát điện sinh khối, ethanol, đường organic… Chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị – giữa người trồng mía, nhà máy chế biến và thị trường tiêu thụ. Tăng cường áp dụng công nghệ cao trong canh tác và chế biến. Đa dạng hóa sản phẩm, không chỉ sản xuất đường, các nhà máy cần phát triển các sản phẩm phụ từ mía, như: điện sinh khối, nhựa sinh học ethanol, phân bón hữu cơ… nhằm nâng cao giá trị gia tăng.
Thứ ba, tiếp tục có những cơ chế phù hợp với ngành Mía đường trong giai đoạn hiện nay. Để ngành Mía đường của Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung, đặc biệt là tình trạng đường nhập lậu từ Thái Lan thì cần có những chính sách phù hợp để người trồng mía tăng cường đầu tư thâm canh, tăng năng suất mía. Cùng với đó, trong giai đoạn hiện nay, khi thời tiết phức tạp, dịch bệnh và các yếu tố ngoại cảnh liên tục thay đổi, cần ưu tiên bố trí nguồn kinh phí hằng năm cho công tác nghiên cứu giống mía mới, từ đó mới có thể chống chọi và thích nghi với những biến đổi để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
4. Kết luận
Ngành Mía đường Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt về năng lực sản xuất và hội nhập thị trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, trước nhiều cơ hội và thách thức, ngành Mía đường cần chuẩn bị và có hướng đi phù hợp để vượt qua các khó khăn, tận dụng cơ hội và thực hiện các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững trong tương lai. Mối liên kết 3 bên giữa Nhà nước – doanh nghiệp – người nông dân cần chặt chẽ, có chiến lược lâu dài, xây dựng chuỗi giá trị bền vững để ngành Mía đường Việt Nam tiếp tục phát triển, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất.
Chú thích:
1, 2. Tác giả tổng hợp theo số liệu từ Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA) giai đoạn từ năm 2020 – 2025.
3. Tác giả tổng hợp theo số liệu của Agromonitor (Agromonitor – Phân tích và dự báo thị trườngnông sản, https://www.agromonitor.vn) giai đoạn từ năm 2020 – 2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Công Thương (2021). Quyết định số 1578/QĐ-BCT ngày 15/6/2021 về áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp chính thức đối với một số sản phẩm đường mía có xuất xứ từ Vương quốc Thái Lan.
2. Bộ Công Thương (2022). Quyết định số 1514/QĐ-BCT ngày 01/8/2022 về áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số sản phẩm đường mía.
3. Bộ Tài chính (2019). Thông tư số 23/2019/TT-BTC ngày 13/11/2019 quy định việc không áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường có xuất xứ từ các nước ASEAN.
4. ThS. Trần Thị Hoa (2023). Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mía đường trong bối cảnh hội nhập. Tạp chí Công Thương số 9, tháng 4/2023.
5. Chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn hướng tới mục tiêu bền vững ở Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/10/02/chinh-sach-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-huong-toi-muc-tieu-ben-vung-o-viet-nam/



