Phát triển sinh kế bền vững từ du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long

TS. Nguyễn Thị Bạch Tuyết
TS. Nguyễn Thị Đan Thụy
Đại học Cần Thơ

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển sinh kế bền vững thông qua du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Long. Kết quả nghiên cứu cho thấy, du lịch cộng đồng đã góp phần cải thiện thu nhập, bảo tồn văn hóa và tạo cơ hội việc làm cho người dân nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế về chất lượng sản phẩm, năng lực quản lý, cơ sở hạ tầng và liên kết giữa các chủ thể. Từ đó, bài viết đề xuất hệ thống giải pháp, bao gồm: đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng lực cộng đồng, tăng cường liên kết, bảo vệ môi trường và hỗ trợ vốn nhằm thúc đẩy phát triển sinh kế bền vững trong thời gian tới.

Từ khóa: Sinh kế bền vững; du lịch cộng đồng; dân tộc thiểu số; tỉnh Vĩnh Long.

1. Đặt vấn đề

Tỉnh Vĩnh Long mới được thành lập theo Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 trên cơ sở sáp nhập các tỉnh: Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh. Đây là vùng đất hội tụ nền văn hóa đa dạng của các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa… Hiện nay, dân số tỉnh Vĩnh Long là 4.257.581 người, toàn tỉnh có hơn 353.000 người đồng bào dân tộc Khmer, chiếm 8,42% dân số toàn tỉnh1.

Trong bối cảnh phát triển bền vững đang trở thành định hướng trọng tâm của nhiều địa phương, du lịch cộng đồng được xem là một trong những mô hình có khả năng tạo sinh kế ổn định, đồng thời, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bản địa. Tại khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Long, tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng khá lớn nhờ điều kiện tự nhiên đặc trưng vùng sông nước, bản sắc văn hóa độc đáo và truyền thống lao động sản xuất đặc thù. Tuy nhiên, việc khai thác du lịch tại đây vẫn còn nhiều hạn chế, như: sản phẩm du lịch chưa đa dạng, kỹ năng du lịch cộng đồng của người dân còn hạn chế, liên kết giữa các chủ thể chưa bền chặt và nguồn lực đầu tư chưa tương xứng. Những yếu tố này khiến sinh kế của cộng đồng dân cư chưa thực sự ổn định và khó đạt được tính bền vững lâu dài. 

Việc nghiên cứu phát triển sinh kế bền vững thông qua du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu không chỉ góp phần nhận diện rõ hơn hiện trạng sinh kế và những yếu tố tác động mà còn đề xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao thu nhập, tăng cường năng lực cho người dân địa phương, bảo tồn văn hóa dân tộc và thúc đẩy phát triển du lịch bền vững. Đây cũng là hướng đi phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển du lịch bền vững của cả nước.

2. Thực trạng phát triển sinh kế bền vững từ du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long

Du lịch cộng đồng là mô hình trong đó người dân bản địa tham gia trực tiếp tổ chức và cung ứng các dịch vụ du lịch (hướng dẫn, homestay, ẩm thực, tham quan di tích văn hóa,…) nhằm chia sẻ lợi ích với cộng đồng. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy du lịch cộng đồng mang lại sinh kế bền vững cho các vùng nông thôn khó khăn, vừa góp phần bảo tồn văn hóa vừa tăng thu nhập cho người dân. Tại Việt Nam, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch chỉ đạo kết hợp bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch cộng đồng, coi đây là “đường đi nước bước phát triển bền vững, giúp đồng bào dân tộc thiểu số giữ gìn bản sắc và tạo sinh kế, góp phần xóa đói giảm nghèo”2

Kinh nghiệm ở miền núi phía Bắc như Hà Giang cho thấy, phát triển homestay, hướng dẫn viên bản địa đã giúp hàng trăm hộ dân tộc cải thiện thu nhập gấp nhiều lần, đồng thời trở thành “đại sứ văn hóa” bảo tồn giá trị truyền thống3. Các nghiên cứu ở nước ngoài (ADB, UNDP, WB) cũng nhận định, du lịch cộng đồng đem lại việc làm, tăng thu nhập và khuyến khích bảo vệ tài nguyên môi trường, từ đó nâng cao bền vững sinh kế cho dân tộc thiểu số.

Thời gian qua, việc phát triển du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào quá trình hình thành và củng cố sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Cụ thể:

Một là, thu nhập của các hộ tham gia hoạt động du lịch được cải thiện rõ rệt nhờ việc khai thác hiệu quả các nguồn lực sẵn có, như: cảnh quan sông nước, vườn cây ăn trái, không gian văn hóa truyền thống và các nghề thủ công đặc thù. Ngoài ra, “đồng bào Khmer khôi phục nghề dệt truyền thống, nghề điêu khắc và nghề làm đường thốt nốt để phục vụ du lịch. Không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa, các nghề này còn giúp tạo thu nhập tại chỗ, giảm tình trạng di cư lao động và góp phần giữ gìn sự gắn kết cộng đồng”4. Nhiều hộ gia đình đã chuyển đổi từ sinh kế thuần nông sang mô hình kết hợp đa dạng giữa sản xuất nông nghiệp, dịch vụ lưu trú, ẩm thực và trải nghiệm văn hóa, giúp giảm rủi ro kinh tế và tạo nguồn thu ổn định hơn theo mùa vụ du lịch. Bên cạnh đó, việc tham gia hoạt động du lịch đã thúc đẩy cộng đồng nâng cao kỹ năng phục vụ, quản lý tài chính hộ, tổ chức tour và giao tiếp khách, từ đó nâng cao năng lực làm chủ sinh kế của chính người dân.

Hai là, du lịch cộng đồng đã góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Các hoạt động, như: trình diễn văn nghệ truyền thống, tái hiện lễ hội, nghề đan lát, làm bánh dân gian hay giới thiệu trang phục dân tộc được đưa vào sản phẩm du lịch đã giúp tạo sinh kế mới gắn với văn hóa bản địa. Điều này, không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa mà còn tạo động lực để cộng đồng tự hào và tích cực tham gia vào quá trình bảo tồn di sản.

Ba là, sự tham gia của phụ nữ và thanh niên trong hoạt động du lịch cũng được mở rộng, qua đó tăng cơ hội việc làm, nâng cao vị thế xã hội và cải thiện bình đẳng giới trong cộng đồng. Mô hình du lịch cộng đồng tại Vĩnh Long thúc đẩy người dân ý thức hơn trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. “Các hoạt động trải nghiệm văn hóa Khmer, nghề làm đường thốt nốt, đan lát, biểu diễn nghệ thuật dân gian được tổ chức ngay tại cộng đồng. Nhiều phụ nữ Khmer tham gia làm du lịch qua việc bán sản phẩm thủ công, nấu ăn cho đoàn khách, hoặc tham gia biểu diễn văn nghệ truyền thống. Những hoạt động này giúp tăng thu nhập, cải thiện đời sống và tạo sự gắn kết cộng đồng”5.

Bốn là, các hộ làm du lịch đã chủ động cải tạo cảnh quan, giữ gìn môi trường sạch đẹp, giảm rác thải nhựa và áp dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn nhỏ, như: tái sử dụng vật liệu, phân loại rác và tận dụng phụ phẩm nông nghiệp. Nhờ đó, môi trường sinh thái được cải thiện và tạo nền tảng cho phát triển du lịch bền vững lâu dài.

Năm là, sự liên kết giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp du lịch và cộng đồng được tăng cường. Chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển du lịch nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ dân tiếp cận vốn vay, tham gia tập huấn và quảng bá sản phẩm du lịch. Doanh nghiệp lữ hành cũng đóng vai trò kết nối thị trường, giúp đa dạng hóa hoạt động trải nghiệm và mở rộng nguồn khách. Sự liên kết này tạo ra một hệ sinh thái du lịch tương hỗ, giúp người dân nâng cao khả năng cạnh tranh và gia tăng thu nhập. 

Trong 10 tháng năm 2025, tỉnh Vĩnh Long đã thu hút khoảng 7,8 triệu lượt du khách, bao gồm hơn 1,03 triệu lượt khách quốc tế, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước và đạt 85,5% mục tiêu đề ra. Từ nay đến cuối năm, địa phương đặt trọng tâm phấn đấu đón thêm trên 3,8 triệu lượt khách, hướng tới tổng doanh thu du lịch xấp xỉ 3.000 tỷ đồng. Bước sang năm 2026, Vĩnh Long kỳ vọng nâng tổng lượng khách lên khoảng 10 triệu lượt, trong đó khách quốc tế đạt khoảng 1,5 triệu lượt, đồng thời đặt mục tiêu doanh thu toàn ngành đạt khoảng 9.000 tỷ đồng6.  Những kết quả này cho thấy, du lịch cộng đồng đã và đang trở thành động lực quan trọng trong phát triển sinh kế bền vững của đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long, đặt nền móng cho một mô hình phát triển hài hòa giữa kinh tế – văn hóa – môi trường.

Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được, thực tiễn phát triển sinh kế bền vững từ du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long cũng tồn tại những hạn chế:

(1) Quy mô và chất lượng sản phẩm du lịch còn hạn chế, phần lớn các hộ dân mới chỉ khai thác những hoạt động đơn giản, như: tham quan vườn, trải nghiệm ẩm thực hoặc xem trình diễn văn nghệ;trong khi các dịch vụ giá trị gia tăng, như: lưu trú, trải nghiệm nghề truyền thống, hay tour chuyên sâu chưa được đầu tư bài bản. Sự thiếu đa dạng sản phẩm khiến khả năng thu hút và giữ chân du khách còn thấp, từ đó hạn chế nguồn thu ổn định cho người dân.

(2) Năng lực quản lý, kỹ năng phục vụ khách du lịch và trình độ ngoại ngữ của người dân còn yếu khiến chất lượng dịch vụ chưa đồng đều và khó đáp ứng yêu cầu của thị trường du lịch hiện đại. Mối liên kết giữa các hộ dân, giữa cộng đồng với doanh nghiệp lữ hành và chính quyền địa phương chưa thực sự chặt chẽ dẫn đến tình trạng manh mún, cạnh tranh nhỏ lẻ và thiếu sự phối hợp trong xúc tiến, quảng bá du lịch. Cơ sở hạ tầng, như: đường giao thông, hệ thống biển chỉ dẫn, bến bãi hay nhà vệ sinh công cộng còn hạn chế, gây khó khăn cho việc tổ chức tour và trải nghiệm du khách.

(3) Ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận người dân còn chưa cao, một số hoạt động du lịch tự phát có nguy cơ gây áp lực lên tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan sinh thái. Việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ và các chương trình đào tạo vẫn còn khó khăn đối với nhiều hộ gia đình, đặc biệt là những hộ nghèo hoặc thiếu thông tin. 

Những hạn chế này cho thấy sự cần thiết phải có chiến lược tổng thể, đầu tư đồng bộ và tăng cường sự phối hợp giữa các bên liên quan để bảo đảm phát triển sinh kế bền vững từ du lịch cộng đồng trong thời gian tới.

3. Giải pháp đẩy mạnh phát triển sinh kế bền vững từ du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long

Để khắc phục những hạn chế hiện hữu và hướng tới phát triển sinh kế bền vững thông qua du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh Vĩnh Long, cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, gắn kết giữa cộng đồng địa phương, chính quyền và doanh nghiệp. 

Thứ nhất, việc nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch cần được xem là nhiệm vụ trọng tâm. Các hộ dân cần được hỗ trợ xây dựng sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, chẳng hạn, như: trải nghiệm nghề thủ công truyền thống, các tour khám phá văn hóa – tín ngưỡng đặc thù, dịch vụ lưu trú theo mô hình homestay đạt chuẩn, hay hoạt động trải nghiệm nông nghiệp gắn với văn hóa bản địa. Mỗi sản phẩm cần được thiết kế có tính đặc trưng, có câu chuyện văn hóa rõ ràng, gắn với bản sắc của đồng bào dân tộc, nhằm tạo sức hút lâu dài cho du khách và tăng khả năng chi tiêu của họ. Đồng thời, cần tăng cường ứng dụng công nghệ số trong thiết kế sản phẩm, quảng bá và bán tour để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường.

Thứ hai, hoàn thiện sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực của cộng đồng. Người dân cần được tham gia các khóa tập huấn bài bản về quản lý dịch vụ, kỹ năng phục vụ khách, vệ sinh an toàn thực phẩm, giao tiếp cơ bản bằng tiếng Anh hoặc các ngoại ngữ phổ biến. Chính quyền và cơ quan chuyên môn có thể phối hợp với trường đại học, trung tâm đào tạo nghề để triển khai các lớp học chuyên sâu, thực hành trực tiếp theo mô hình “cầm tay chỉ việc”. Việc nâng cao năng lực không chỉ cải thiện chất lượng dịch vụ mà còn giúp cộng đồng tự tin, chủ động tham gia quản lý mô hình du lịch cộng đồng, từ đó củng cố vai trò chủ thể của người dân trong phát triển sinh kế.

Thứ ba, tăng cường liên kết giữa các hộ dân, giữa cộng đồng với doanh nghiệp du lịch và chính quyền địa phương. Cần hình thành các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã du lịch cộng đồng để tạo sự thống nhất trong quản lý, điều phối giá dịch vụ, chia sẻ thông tin, cùng nhau phát triển sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, doanh nghiệp lữ hành cần được khuyến khích tham gia sâu vào chuỗi giá trị du lịch cộng đồng thông qua việc hỗ trợ thiết kế tour, kết nối thị trường, hướng dẫn cộng đồng nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính quyền địa phương giữ vai trò điều phối, tạo môi trường pháp lý thuận lợi và hỗ trợ xây dựng thương hiệu du lịch đặc trưng cho khu vực dân tộc thiểu số của Vĩnh Long.

Thứ tư, đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch cũng là yêu cầu cấp thiết. Chính quyền cần ưu tiên nâng cấp đường giao thông kết nối các điểm du lịch, xây dựng hệ thống biển báo, nhà chờ, bến bãi, nhà vệ sinh công cộng bảo đảm vệ sinh và tính thẩm mỹ. Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho du khách trải nghiệm mà còn hỗ trợ các hộ dân mở rộng kinh doanh du lịch, giảm chi phí vận chuyển, nâng cao hiệu quả sinh kế.

Thứ năm, chú trọng nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Các hộ làm du lịch phải được hướng dẫn về phân loại rác, hạn chế sử dụng nhựa dùng một lần, bảo vệ cảnh quan, sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước và năng lượng. Chính quyền có thể triển khai các mô hình “du lịch xanh”, “homestay sinh thái”, hoặc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá bền vững để khuyến khích hộ dân tham gia. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục môi trường cần được lồng ghép trong sinh hoạt cộng đồng, trường học và các sự kiện du lịch, từ đó tạo chuyển biến lâu dài trong hành vi của người dân.

Thứ sáu, hỗ trợ tài chính và tạo điều kiện tiếp cận vốn cho người dân. Tỉnh cần mở rộng các chương trình tín dụng ưu đãi, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp du lịch, đồng thời đơn giản hóa thủ tục vay vốn để người dân có thể tiếp cận dễ dàng. Các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp xã hội và ngân hàng chính sách cũng có thể tham gia hỗ trợ cộng đồng thông qua các gói tài trợ hoặc vốn xoay vòng nhỏ.

Thứ bảy, xây dựng chiến lược dài hạn cho du lịch cộng đồng vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chiến lược này, cần xác định rõ định hướng phát triển sản phẩm, quy hoạch không gian du lịch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, bộ tiêu chí đánh giá bền vững và cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan. Việc ứng dụng công nghệ – thông tin trong quản lý, theo dõi, quảng bá và xúc tiến thị trường cũng cần được triển khai mạnh mẽ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và mở rộng tầm ảnh hưởng của du lịch cộng đồng.

4. Kết luận

Du lịch cộng đồng tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Vĩnh Long có vai trò quan trọng trong việc tạo sinh kế bền vững, góp phần nâng cao thu nhập, bảo tồn văn hóa và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, quá trình phát triển vẫn đối mặt với nhiều hạn chế về chất lượng sản phẩm, năng lực cộng đồng, liên kết chuỗi giá trị và hạ tầng hỗ trợ. Để du lịch cộng đồng thực sự trở thành động lực phát triển sinh kế lâu dài, cần triển khai đồng bộ các giải pháp. Việc thực hiện hiệu quả các giải pháp này sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm phát triển hài hòa giữa kinh tế – văn hóa – môi trường, hướng tới mục tiêu bền vững cho cộng đồng địa phương.

Chú thích:
1. Những khởi sắc ở vùng đồng bào dân tộc Khmer tại Vĩnh Long.https://tintuc.vinhlong.gov.vn/xem-chi-tiet-tin-tuc/id/286566.
2. Kết nối văn hóa với du lịch: Mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng dân tộc thiểu số. https://bvhttdl.gov.vn/ket-noi-van-hoa-voi-du-lich-mo-rong-khong-gian-phat-trien-cho-cong-dong-dan-toc-thieu-so.
3. Community tourism transforms livelihoods of ethnic minorities in Ha Giang.https://vietnamlawmagazine.vn/community-tourism-transforms-livelihoods-of-ethnic-minorities-in-ha-giang-73806.html.
4. Gắn bảo tồn văn hóa với phát triển sinh kế: Hướng đi bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. http://baokiemtoan.vn/gan-bao-ton-van-hoa-voi-phat-trien-sinh-ke-huong-di-ben-vung-cho-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-44697.html.
5. Du lịch cộng đồng trở thành sinh kế mới cho người dân vùng khó khăn. https://dangcongsan.vn/bovhttdl/tin-tuc-hoat-dong/du-lich-cong-dong-tro-thanh-sinh-ke-moi-cho-nguoi-dan-vung-kho-khan.html.
6. Để du lịch Vĩnh Long đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế. https://bvhttdl.gov.vn/de-du-lich-vinh-long-dong-gop-hieu-qua-vao-tang-truong-kinh-te-20251113094752536.htm.
Tài liệu tham khảo:
1. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2015). Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 06/11/2015 về phát triển du lịch giai đoạn 2015 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
2. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2022). Quyết định số 2488 /QĐ-UBND ngày 30/11/2022 về việc ban hành kế hoạch phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2022 -2025 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
3. Vĩnh Long phát triển kinh tế du lịch theo không gian mới. https://nhandan.vn/vinh-long-phat-trien-kinh-te-du-lich-theo-khong-gian-moi-post919861.html.