Đại tá, TS. Bùi Thanh Cao
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý: Nước nhà thịnh hay suy, vững chắc hay lâm nguy đều bắt nguồn từ “lòng dân” có chung sức, đồng lòng? Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta nói chung và Đảng bộ tỉnh Hà Giang nói riêng luôn xác định, phát huy vai trò của lực lượng vũ trang tỉnh Hà Giang trong xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ biên giới quốc gia trong thời kỳ mới là vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích cốt lõi của quốc gia – dân tộc, sinh mệnh và sự sống còn của Đảng, Nhà nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang vững mạnh.
Từ khóa: Lực lượng vũ trang, thế trận lòng dân, biên giới quốc gia, tỉnh Hà Giang.
1. Quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, quan điểm của Đảng về tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân”
“Thế trận lòng dân” được hiểu là tinh thần yêu nước, tình đoàn kết gắn bó, khát vọng độc lập tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, nhân lên tạo thành nền tảng chính trị tinh thần vững chắc, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, sẵn sàng huy động và trở thành thực lực quân sự thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng. “Thế trận lòng dân” là một nhân tố cực kỳ quan trọng cấu thành sức mạnh quốc phòng, quân sự Việt Nam; là loại hình thế trận đặc biệt, không thể hiện ra bằng hình hài cụ thể như thế trận quân sự, quốc phòng mà được thể hiện bằng sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc theo từng cấp độ khác nhau. “Thế trận lòng dân” là vấn đề cốt tử đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”1.
Hà Giang là tỉnh biên giới cực Bắc của Tổ Quốc có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh; phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam và Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc; phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng; phía Tây – Tây Nam giáp tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái; phía Đông Nam giáp tỉnh Tuyên Quang; có đường biên giới dài trên 277,556 km, với 442 cột mốc. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã luôn quan tâm đến vấn đề này. Bài học sâu sắc nhất mà Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã rút ra từ thực tiễn là phải huy động, tập hợp được sức mạnh của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Thực tiễn cho thấy, Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã thực hiện đúng đắn đường lối, quan điểm của Đảng về Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “Thế trận lòng dân”.
Quán triệt, triển khai thực hiện quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh năm 1991 “Sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc phòng. Phát triển kinh tế – xã hội phải đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng; quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội, xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt (Đại hội lần thứ X của Đảng); trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới về tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, thế trận lòng dân (Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (Đại hội lần thứ XI của Đảng)2. Xây dựng “thế trận lòng dân” tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Đại hội lần thứ XII của Đảng)3. Đặc biệt, quán triệt quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”4.
Thời gian qua, lực lượng vũ trang tỉnh Hà giang đã luôn tích cực tham gia xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Tham mưu, phối hợp duy trì, nâng cao hoạt động của 193 chi bộ quân sự xã phường, thị trấn, trong đó 69 chi bộ có chi ủy; tổng số hơn một ngàn đảng viên; có 175 đồng chí chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã được bầu vào Ban Thường vụ cùng cấp; quan tâm phát triển đảng trong đoàn viên thanh niên hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương, dân quân tự vệ, dự bị động viên, công an viên, người dân tộc thiểu số.
Quán triệt Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng trung du miền núi, lực lượng vũ trang tỉnh Hà Giang đã tích cực tham gia phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Tham gia xây dựng nông thôn mới và thực hiện Chương trình giúp nhân dân cải tạo vườn tạp; giúp các hộ gia đình cải tạo vườn tạp, củng cố, vệ sinh nhà ở; xây dựng hàng trăm mét kè đá; hỗ trợ 7.500 cây giống; hỗ trợ trâu hộ gia đình chính sách; giúp hàng trăm hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn san nền, vận chuyển vật liệu; hỗ trợ kinh phí mở mới và nâng cấp tuyến đường dân sinh, đường tuần tra biên giới trên địa bàn xã Nghĩa Thuận, huyện Quản Bạ; huy động hàng ngàn ngày công xây dựng cầu tạm và tu sửa đổ bê tông đường giao thông nông thôn.
Đồng thời, lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Hà Giang đã luôn tích cực tham gia phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn; phòng, chống dịch bệnh; huy động 1.788 lượt người tham gia các chốt kiểm soát khu vực biên giới, nội địa trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 với 48.229 ngày công; ủng hộ các tỉnh phía Nam trong phòng chống dịch với số tiền 100.000.000 đồng; huy động trên 3.000 công tham gia phối hợp khắc phục hậu thiên tai, hỏa hoạn.
Công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc người có công, gia đình thương binh – liệt sỹ cũng thường xuyên được quan tâm với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, lực lượng vũ trang tỉnh đã vận động góp quỹ “đền ơn đáp nghĩa” số tiền gần một tỷ đồng; khảo sát, tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ với diện tích hơn một ngàn ha, huy động trên 25.000 ngày, quy tập được gần một trăm bộ hài cốt liệt sĩ; đề nghị hưởng chế độ phụ cấp đặc thù cho 6.549 lượt cán bộ, chiến sỹ. Xây dựng hàng chục nhà tình nghĩa, số tiền gần một tỷ đồng; trợ cho 10 quân nhân từ trần; tri trả tiền cho các đối tượng theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trong các dịp lễ, tết lực lượng vũ trang tỉnh đều tổ chức các hoạt động thăm hỏi, tặng quà, tri ân các người công, gia đình thương binh – liệt sỹ. Đặc biệt, hằng năm thực hiện chương trình Hằng năm phối hợp tổ chức thành công Chương trình “Xuân biên giới vui tết quân dân” và ngày Hội Bánh chưng xanh cho Nhân dân ở khu vực biên giới. Kết quả đó là sự phản ánh sự nỗ lực, cố gắng của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Hà Giang trong tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
2. Tiềm lực quốc phòng và “thế trận lòng dân” ở tỉnh Hà Giang luôn được tăng cường, củng cố vững chắc, phát huy mạnh mẽ.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, Đảng bộ, chính quyền và lực lượng vũ trang tỉnh đã chú trọng xây dựng đồng bộ, thống nhất các tiềm lực: tiềm lực chính trị, tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực khoa học – công nghệ; tiềm lực quân sự, an ninh; xây dựng thế trận quân sự, an ninh phải dựa vào nhân dân; xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần, lấy xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là then chốt, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đạt ra.
Kinh tế của tỉnh luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của tỉnh đều đạt và vượt so với nghị quyết đề ra. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên. Các chính sách, giải pháp về nhà ở, giáo dục, y tế, giải quyết việc làm, xây dựng các thiết chế văn hóa, chăm lo cho các đối tượng chính sách, xã hội và giảm nghèo bền vững được thực hiện tốt. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân luôn được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn, khu vực trọng điểm; luôn kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế, xã hội trong mọi tình huống; chủ động nắm chắc, dự báo sát tình hình, xử lý kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động.
Công tác đối ngoại được đẩy mạnh, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được chú trọng, dân chủ trong Đảng tiếp tục được mở rộng, công tác chính sách cán bộ được thực hiện tốt, công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện nghiêm, công tác bảo vệ nền tảng của Đảng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch luôn được tăng cường, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý được phát huy; sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được triển khai theo hướng từng bước tinh gọn, giảm đầu mối gắn với tinh giản biên chế, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên…
Công tác dân vận, Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục có những chuyển biến tích cực, ngày càng đi vào chiều sâu, đóng góp quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt đã phát huy hiệu quả, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang trong tình hình mới.
3. Một số giải pháp tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân ở tỉnh Hà Giang hiện nay
(1) Nâng cao nhận thức về tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Tiếp tục quán triệt, tổ chức, triển khai tốt các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân”5.
Phải làm cho “ý Đảng” về tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân thấm sâu vào mỗi người dân, “ý Đảng hòa quyện với lòng dân” trở thành tư tưởng chủ đạo trong tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” thời kỳ mới. Phê phán quan điểm nhận thức lệch lạc cho rằng: cứ có kinh tế mạnh ắt sẽ có tiềm lực và thế trận quốc phòng, an ninh mạnh. Mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh cần phải thấu suốt quan điểm kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế.
Quá trình thực hiện, cần chú trọng đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục quốc phòng, an ninh, giáo dục theo chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị của đất nước; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện thông tin, truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với phong trào thi đua nhằm tạo ra các điển hình tiên tiến về xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân”.
(2) Bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, vai trò quản lý chính quyền đối với tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”5. Đây là vấn được thể hiện ở chỗ Tỉnh ủy trực tiếp quyết định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong tỉnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp; thực hiện nghiêm Hiến pháp, Luật Quốc phòng, các chiến lược về quốc phòng, an ninh cả trong thời bình và thời chiến; củng cố, kiện toàn cơ quan, cán bộ làm công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, địa phương. Đồng thời, nâng cao năng lực hoạch định đường lối, thể chế hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết về quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở; khả năng hiện thực hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp của các chiến lược quốc phòng, an ninh vào thực tiễn.
Tăng cường vai trò của chính quyền trong quản lý, điều hành đối với việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong tình hình mới. Rà soát, phát hiện những bất cập và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm về quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa quân đội và công an, hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh. Xác định cụ thể cơ chế vận hành, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách về công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương. Ðối với các cơ quan chức năng cần tổ chức phân công cán bộ chuyên trách, tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ để phát huy vai trò làm tham mưu, giúp việc trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
(3) Đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tập trung xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, tạo môi trường, điều kiện ngày càng thuận lợi, an toàn cho người dân, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân tự do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và tự chủ, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch trong kinh tế thị trường, tạo động lực phát triển các thành phần kinh tế khác. Quá trình phát triển phải bảo đảm hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, ưu tiên phát triển chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh; chú trọng kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chủ động tham gia và tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để gia tăng tốc độ phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Coi trọng đẩy mạnh giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ, nhất là khoa học, công nghệ quân sự, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học – công nghệ. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong các quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát triển; mọi mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đều phải gắn chặt với mục tiêu quốc phòng, an ninh, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế, xây dựng, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động ở địa bàn trọng điểm, chiến lược. Phát huy cao độ quyền dân chủ của Nhân dân trong hoàn thiện và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, lấy phục vụ Nhân dân là mục tiêu cao nhất.
(4) Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh vững mạnh, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, kết hợp quốc phòng với an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và đối ngoại nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa bình, tạo thuận lợi để phát triển. Quán triệt sâu, kỹ quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại. Đẩy mạnh công tác đối ngoại và hợp tác quốc phòng, an ninh; chú trọng nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan quân sự với Công an và dân quân tự vệ, nhất là về phối hợp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng. tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Phát huy vai trò của cơ quan quân sự và Công an trong tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp, tổ chức thực hiện; tham gia thẩm định, quản lý, sử dụng đất quốc phòng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển các khu kinh tế – quốc phòng, nhất là ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu, bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên phạm vi của tỉnh và từng địa bàn.
Thường xuyên nghiên cứu địa bàn, kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng, an ninh địa phương, triển khai có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, đề án quốc phòng, an ninh; tham mưu xây dựng các công trình chiến đấu theo kế hoạch phòng thủ. Phát huy vai trò cơ quan quân sự, Công an là “đội quân công tác” trên các địa bàn trọng điểm, phức tạp về quốc phòng, an ninh, trật tự; tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và giảm nghèo bền vững; phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn và bảo vệ môi trường; giữ vững và phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, “Công an nhân dân” trong lòng nhân dân. Chấn chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm những cán bộ, chiến sĩ vi phạm lỷ luật công tác trong quá trình tiếp xúc với nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ.
(5) Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch.
Cần chú trọng hơn việc xây dựng lòng tin của Nhân dân vào cấp ủy, chính quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo hướng tích cực phòng ngừa là chủ yếu, kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như các biểu hiện dung túng, bao che hoặc ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực dưới mọi hình thức. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với tự tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên; coi trọng công tác quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên theo đúng quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước.
Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, kết hợp với mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, công khai, minh bạch mọi vấn đề đối với từng cá nhân, tổ chức, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực… Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kiên quyết xử lý, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng; đồng thời, có chính sách khuyến khích, bảo vệ các tổ chức, cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần xây dựng cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị cơ sở trong sạch vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân với cấp ủy, chính quyền.
Tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống và làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch., ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” ở tỉnh Hà Giang, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chú thích:
1. Nguyễn Phú Trọng (2019). Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 80.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 224 – 235.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 149.
4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 157, tr. 160 – 161.