Công bằng xã hội trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay

ThS. Nguyễn Thị Liên
Trường Đại học Thương mại


(Quanlynhanuoc.vn) – Công bằng xã hội trong giáo dục đại học là tạo ra môi trường học tập như nhau và phù hợp với mọi người đều được tiếp cận, tham gia vào trong quá trình giáo dục. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đại học đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục. Bài viết khái quát những vấn đề lý luận về công bằng xã hội trong giáo dục đại học, thực trạng về công bằng xã hội trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công bằng xã hội trong giáo dục đại học.

Từ khóa: Công bằng xã hội; giáo dục đại học; sinh viên sư phạm; giải pháp.

1. Đặt vấn đề

Công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội để mọi người phát huy khả năng học tập luôn được xã hội quan tâm và được coi là một nội dung quan trọng trong chính sách giáo dục của Việt Nam. Tại Báo cáo Chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội”1. Nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển thường xuyên, liên tục của xã hội, thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục đặc biệt thì ở bậc giáo dục đại học là rất quan trọng. 

2. Một số vấn đề lý luận về công bằng xã hội trong giáo dục đại học ở Việt Nam

Khái niệm công bằng xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, công bằng xã hội là biểu hiện của mối quan hệ lợi ích của con người trong xã hội. Những lợi ích mà con người cống hiến và thụ hưởng được thực hiện trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, như: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, nghệ thuật…, trong đó lợi ích về kinh tế là căn bản, quyết định đối với các lợi ích khác trong quá trình thực hiện công bằng cho tất cả thành viên của xã hội. Vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, khi nói đến công bằng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gắn với bình đẳng xã hội, trước hết là “bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” mà bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ thực chất là công bằng về cơ hội phát triển2.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”3. Từ đó, có thể thấy, công bằng xã hội là sự bình đẳng giữa người với người trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi nhằm bảo đảm sự phù hợp với lợi ích phát triển của từng chủ thể trong một kết cấu kinh tế của một xã hội cụ thể.

Trong giáo dục đại học công bằng xã hội thể hiện ở việc mọi người dân được tạo điều kiện học tập không phân biệt vùng miền, dân tộc, tôn giáo, tình hình kinh tế… Đồng thời, Nhà nước xây dựng những chủ trương, chính sách để tạo ra nhiều cơ hội học tập cho người dân để có thể phát huy khả năng, sở trường của mọi công dân, đặc biệt là giúp đỡ người nghèo được học tập, bảo đảm người giỏi được phát triển được tài năng. Như vậy, công bằng xã hội trong giáo dục được thể hiện qua một số nội dung sau:

Một là, công bằng xã hội trong giáo dục đại học là không có sự phân biệt giới tính, dân tộc và đẳng cấp trong việc hưởng thụ nền giáo dục, mọi người dân đều được hưởng giá trị từ nền giáo dục đem lại. Điều này có nghĩa là không biệt giới tính, đẳng cấp, giai cấp hay dân tộc đa số hay thiểu số, tất cả mọi người đều được hưởng nền giáo dục này theo mức độ phù hợp khác nhau, nền giáo dục thống nhất được áp dụng cho mọi người: “một nền giáo dục thống nhất cho tất cả mọi người, tiến hành cho đến lứa tuổi mà người ra có thể trở thành một thành viên độc lập của xã hội”4

Hai là, công bằng xã hội trong giáo dục đại học là phải bảo đảm được phương pháp và nội dung cho từng đối tượng, lứa tuổi. Mỗi người đều có cách tiếp cận cũng như nhận thức khác nhau. Nhà nước cần có những chủ trương, chính sách cụ thể để nâng cao tri thức của họ dựa trên khả năng hiện tại của họ, thiết kế chương trình giáo dục cho phù hợp với từng đối tượng là yếu tố quan trọng để bảo đảm được sự công bằng trong học tập. Nhà nước bảo đảm nội dung, hình thức giảng dạy được thể hiện bằng ngôn ngữ của mỗi dân tộc “Nhân dân có quyền học tập bằng tiếng mẹ đẻ, quyền này được bảo đảm bằng cách lập ra các trường cần thiết cho việc học tập đó, phí tổn do Nhà nước và các cơ quan tự trị địa phương đài thọ”5. Sự phù hợp từ phương pháp đến nội dung giáo dục cho mỗi đối tượng người học sẽ đem lại sự công bằng thật sự trong giáo dục. 

Ba là, Nhà nước thực hiện những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm công bằng trong giáo dục. Xác định rõ đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu, Nhà nước thực hiện nhiều biện pháp để thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng trong giáo dục. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Do vậy, cần phải tiếp tục thực hiện chống tái mù chữ, khắc phục tình trạng bỏ học trong sinh viên là con em các gia đình nghèo và đối tượng chính sách, nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình khó khăn. 

Bên cạnh đó, những chính sách học bổng, học phí và các giải pháp hỗ trợ đã có tiến bộ, nhưng vẫn còn chưa hợp lý, nhất là đối với con em nông dân, công nhân nghèo, đối tượng chính sách, phấn đấu vì mục tiêu: “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ, công hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế – xã hội”6

3. Thực tiễn thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đại học ở Việt Nam

Những năm qua, nhằm thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đại học, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích và hỗ trợ để mọi người dân có nhu cầu có thể được học tập và nâng cao trình độ. 

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ưởng Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ rõ một trong các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản là “hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”. Đây là cơ sở để các quy định pháp luật ra đời nhằm bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, quy định một số chuyên ngành đào tạo, như: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác – Lênin… tại các trường công lập được Nhà nước miễn, giảm học phí, điều này giúp cho sinh viên không có điều kiện để theo học, giảm được gánh nặng học phí.

Ngoài ra, sinh viên trường sư phạm là thuộc nhóm đối tượng được ưu tiên, như: Nghị định số 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm thì sinh viên được hỗ trợ học phí và sinh hoạt phí, sinh viên sư phạm trong thời gian thực tế học tập tại trường hỗ trợ học phí bằng mức thu học phí của trường đào tạo cùng với đó là hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng tiền sinh hoạt phí và không vượt quá 10 tháng trên một năm học. Đồng thời, theo Nghị định số 116/2020/NĐ-CP, sinh viên cũng phải cam kết sau khi ra trường sinh viên phải công tác ít nhất trong ngành giáo dục tối thiểu gấp hai lần thời gian đào tạo tính từ ngày được tuyển dụng, điều này sẽ giúp cho nhiều gia đình, nhiều sinh viên có thể theo đuổi ước mơ của mình vào ngành sư phạm. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước cũng có những chủ trương, chính sách cho sinh viên các gói vay vốn học tập với những lãi suất thấp tại ngân hàng. Cùng với đó, các trường đại học đều có những chính sách hỗ trợ, ưu đãi, như: học bổng cho sinh viên xuất sắc, hỗ trợ cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn,… góp phần giảm áp lực tài chính cho sinh viên và gia đình.

Đảng và Nhà nước cũng có các chính sách nhằm hỗ trợ các đối tượng sinh viên là người dân tộc thiểu số, sinh viên là người khuyết tật, như: cộng điểm vùng miền, chính sách về học bổng, hỗ trợ ăn trưa, đồ dùng học tập,… cùng với đó còn có những chính sách ưu tiên cử tuyển, tuyển thẳng đối với học sinh đạt kết quả học tập cao, tuyển sinh dự bị đại học, rất nhiều chính sách giúp cho sinh viên dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa cũng được đi học, được tiếp cận nền giáo dục tốt nhất như những sinh viên khác.

Cùng với các chính sách hỗ trợ thì các cơ sở giáo dục đại học đã chủ động và tích cực đổi mới nội dung cũng như phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm, đặc biệt quan tâm đến năng lực ngoại ngữ, các kỹ năng mềm, lý luận luôn gắn liền với thực hành, thực tiễn giúp sinh viên tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm, phát triển năng khiếu và tính sáng tạo cũng như từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Một số trường đại học đã chú trọng phát triển chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế và liên kết quốc tế nâng cao chất lượng đào tạo, đầu tư công nghệ thông tin, cơ sở vật chất, xây dựng học liệu điện tử đa dạng, phong phú nhằm hỗ trợ người học và người dạy. 

Tuy nhiên, việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục vẫn còn hạn chế thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, sự không công bằng về phương thức tuyển sinh, xét tuyển đại học hiện nay. Hằng năm, thi tốt nghiệp trung học phổ thông vào khoảng tháng 6, xét tuyển dựa trên điểm thi diễn ra sau trung tuần tháng 7. Tuy nhiên, một số trường đại học nhận hồ sơ xét tuyển sớm vào cuối tháng 3 với nhiều phương thức, như: điểm học bạ, chứng chỉ quốc tế (Ielts, SAT),… xét tuyển sớm giúp cho thí sinh nhiều lựa chọn, chủ động hơn, giảm áp lực ở kỳ thi tốt nghiệp. Một số trường, như: Đại học Nguyễn Tất Thành, Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Kinh tế – Tài chính TP. Hồ Chí Minh hay Trường Đại học tư thụ  Quốc tế Sài Gòn đưa ra điểm học bạ từ 16,5 – 18; Trường Đại học Thương mại lấy điểm sàn học bạ từ 25; Đại học Ngoại thương yêu cầu điểm trung bình 5 học kỳ của ba môn trong tổ hợp từ 8,5 trở lên7. Năm 2023, xét tuyển từ kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông chiếm cao nhất là 49,45%… Đối với xét tuyển sớm, năm 2023, số cơ sở đào tạo xét tuyển sớm là 214/322; số thí sinh trúng tuyển sớm là 375.517; số nguyện vọng trúng tuyển sớm 1.268.232; số thí sinh có trúng tuyển sớm sau lọc ảo 301.8498.

Không thể phủ nhận điều này đã góp phần tạo ra phong trào thi đua học tập ngoại ngữ sôi nổi, tuy nhiên, nó cũng bộc lộ nhiều bất cập như không bảo đảm nguyên tắc công bằng giữa các thí sinh ở những vùng miền khác nhau như thành thị với nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Thực tế, để hoàn thành một khóa học Ielts lấy chứng chỉ quốc tế thì phải bỏ một khoản phí rất lớn, hiển nhiên không phù hợp với những gia đình khó khăn, như vậy với việc tuyển thẳng với thí sinh có chứng chỉ quốc tế sẽ vô tình chiếm chỗ của học sinh trong những gia đình có thu nhập thấp mà vẫn phải học toàn diện các môn. Bên cạnh đó, việc xét tuyển quá sớm, trong khi đó học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp 12, kỳ II lớp 12 cũng là thời gian học sinh tích lũy để xét tuyển sớm như giải học sinh giỏi, chứng chỉ quốc tế. Vì vậy, nếu xét tuyển sớm, nguồn dữ liệu có thể không đầy đủ, đặc biệt việc xét sớm hiện nay không đủ sự so sánh đáng tin cậy, chất lượng đào tạo ở trường phổ thông hiện không được kiểm định, kết quả học bạ ở từng trường, địa phương không đạt đến một chuẩn chung. 

Thứ haisự không bằng trong quá trình đào tạo đại học hiện nay. Theo Thông tư số 27/2019/TT-BGDĐT ngày 30/12/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng giáo dục đại học, quy định từ ngày 01/3/2020 hình thức đào tạo là nội dung được ghi trên phụ lục văn bằng chứ không còn được ghi trên văn bằng giáo dục đại học như trước đây. Như vậy, cũng đồng nghĩa với việc không phân biệt loại hình đào tạo chính quy, tại chức hay liên thông. Điều này chính là những băn khoăn lớn không chỉ với người học mà còn cả với các cơ sở giáo dục đại học về sự công bằng. Do hệ tại chức, liên thông, đào tạo từ xa có nhiều sự khác biệt về điều kiện đầu vào, quá trình đào tạo và yêu cầu đầu ra so với hệ chính quy như hệ chính quy phải bảo đảm chất lượng đầu vào như kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông hay xét học bạ, chứng chỉ quốc tế. Trong khi đó, hệ liên thông, tại chức thì phương thức xét tuyển khá đơn giản, về trình độ thì chỉ cần tốt nghiệp trung học phổ thông, có trình độ cao đẳng hoặc trình độ trung cấp là đủ, không yêu cầu cao như hệ chính quy. 

Quá trình học tập giữa hai hệ của sinh viên cũng có sự khác biệt khá lớn, trong khi sinh viên chính quy phải học đủ số tín chỉ bốn năm trở lên, chương trình học, kiến thức, kiểm tra cuối kỳ cũng chặt chẽ và khó hơn rất nhiều, còn sinh viên hệ tại chức, liên thông thì chỉ học một số buổi trong tuần hoặc học ngày cuối tuần, chương trình học cũng đơn giản hơn.

Bên cạnh đó, giữa trường công lập và dân lập cũng chưa có sự công bằng, như: sinh viên trường công lập được học trong môi trường cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên tốt nhưng đóng học phí thấp, còn sinh viên các trường tư thục có một số trường chất lượng không cao nhưng vẫn phải đóng học phí cao. Điều này sẽ khó khăn đối với số học sinh, sinh viên con em lao động, nhà nghèo phải học trường tư. Sinh viên công lập có chính sách hỗ trợ về học phí của nhà nước, còn sinh viên ngoài công lập thì không. Do đo, cũng tạo sự không công bằng cho người học ở hai hệ thống trường học.

Thứ basự không công bằng trong cơ hội đến trường, khoảng cách vùng miền. Ở những vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, đi lại khó khăn gây ảnh hưởng lớn tới việc học của học sinh các bậc học chưa nói là được đi học đại học, khiến trình độ học vấn giữa thành thị và nông thôn có sự chênh lệch rất lớn. Các trường đại học, cao đẳng chất lượng cao, thậm chí các trung tâm ngoại ngữ tập trung chủ yếu ở các khu đô thị lớn còn những vùng nông thôn hay những tỉnh lẻ thì rất ít, điều này cũng dẫn tới sự không công bằng về tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền. Tỷ lệ trẻ dân tộc thiểu số đi học bậc trung học phổ thông đặc biệt thấp là do việc đi học cấp 3 hay các bậc cao hơn như dạy nghề, đại học chưa đem lại lợi ích thiết thực cho người dân tộc thiểu số. Sinh viên dân tộc thiểu số tốt nghiệp đại học, dạy nghề, kể cả các đối tượng đi học theo chính sách cử tuyển, đối mặt với thất nghiệp, phải làm lao động phổ thông, không nhận được sự ghi nhận của cộng đồng, không có cơ hội tham đóng góp, xây dựng cộng đồng bản địa là hiện tượng phổ biến.

Mặc dù, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách ưu tiên cho những vùng miền khó khăn nhưng chỉ hỗ trợ một phần chứ không thể toàn bộ cho người nghèo, khó khăn. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, cơ sở vật chất còn lạc hậu, khoảng cách từ nơi ở đến trường học không chỉ xa mà còn khó đi, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực giáo dục ở các trường học tại nơi này còn rất thiếu. Đặc biệt, trong các biến động của tình hình kinh tế – xã hội, như đại dịch Covid-19 khiến cho sinh viên phải học trực tuyến, các tỉnh miền núi, vùng dân tộc là những nơi khó tiếp cận internet và còn không đồng đều, gây gián đoạn việc học tập. Theo kết quả kỳ thi quốc gia tốt nghiệp trung học phổ thông trong nhiều năm qua cho thấy, nhóm tỉnh Hà Giang, Đắk Lắk, Cao Bằng, Trà Vinh, Đắk Nông, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, địa bàn cư trú chủ yếu của người dân tộc thiểu số Khơ-me, Mông, Dao, Gia Rai, Ê đê, đều nằm ở nửa cuối của bảng xếp hạng 63 tỉnh thành9.

4. Một số giải pháp góp phần thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đại học ở hiện nay

Một là, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bảo đảm công bằng cho thí sinh, đặc biệt vấn đề về xét tuyển sớm của các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Các trường đại học cần sớm công khai và duy trì tính ổn định trong các đề án tuyển sinh, lịch tuyển sinh… để học sinh có phương pháp, biện pháp học tập đáp ứng tốt nhất với sở thích, nguyện vọng. Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm những sai phạm và công khai các trường vi phạm trong tuyển sinh và kết quả xử lý khi sai phạm. Đối với xét tuyển ưu tiên thí sinh có chứng chỉ ngoại ngữ mặc dù chính sách tuyển sinh này kích thích người học học ngoại ngữ tốt hơn. Tuy nhiên, giữa các vùng miền có sự khác biệt khi tiếp cận giáo dục, cho nên cũng cần coi đây là chứng chỉ bổ trợ không nên coi là chỉ số quyết định việc đỗ hay trượt của học sinh hoặc có số lượng cụ thể số chỉ tiêu tuyển theo hình thức tuyển sinh sớm để giữ sự công bằng với người học. 

Hai là, chương trình đào tạo của các trường cần có sự thống nhất, khoa học, bảo đảm thống nhất về yêu cầu chất lượng của tất cả các chương trình đào tạo, để phù hợp với Luật Giáo dục đại học. Nhưng hiện nay, cách thức tổ chức chất lượng và tổ chức đào tạo giữa các trường là khác nhau nên Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải có giải pháp giám sát chặt chẽ quá trình tổ chức đào tạo, các hình thức đào tạo. Cùng với đó quá trình đề thi, đánh giá người học… cần phù hợp với từng hình thức, bảo đảm tính công bằng cho người học. 

Ba là, để có sự công bằng đối với người học trường công hay trường tư thì cần hoàn thiện cơ chế, chính sách về yêu cầu về cơ sở vật chất, giảng viên của hệ thống trường ngoài công lập nhằm bảo đảm công bằng cho người học như chính sách giao đất hoặc xây dựng trường ngoài công lập được thuê với giá ưu đãi, quan tâm đến trường tư trong những quyết định và chủ trương tuyển sinh, hỗ trợ sinh viên khó khăn ở các trường này cũng là bảo đảm mục tiêu công bằng trong giáo dục. 

Bốn là, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách ưu tiên trong giáo dục cụ thể cho từng vùng miền, vùng sâu vùng xa, những vùng khó khăn về cơ sở vật chất, sách vở, điện… Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “quan tâm thích đáng đến phát triển giáo dục ở miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”10. Vì vậy “Đầu tư thích đang cho giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao; có chính sách đầu tư đặc thù cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”11. Nhà nước cần đầu tư phát triển hệ thống giao thông, điện lưới, cơ sở trường lớp và trạm y tế đến từng thôn bản… đặc biệt là tạo điều kiện khuyến khích nhân dân các dân tộc phát triển ngành nghề truyền thống, khai thác được tối đa các thế mạnh của đồng bào vào phát triển kinh tế – xã hội nhằm bảo đảm cho đồng bào có cơ hội học tập. Nâng cao chất lượng đối với giáo dục dân tộc thiểu số, miền núi và tiếp tục thực hiện đủ, đúng, kịp thời các chế độ, chính sách đối với giáo viên cũng như học sinh, sinh viên ở trường chuyên biệt, vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn. 

Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục các trường đại học, cao đẳng dự bị và các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Cần tăng cường xây dựng trường phổ thông dân tộc, nội trú đạt chuẩn quốc gia. Đặc biệt, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tuyên truyền và phổ biến nâng cao trách nhiệm, nhận thức các cấp, ngành, gia đình, nhà trường về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phát triển công bằng xã hội trong giáo dục nói chung và công bằng xã hội trong giáo dục đại học vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi nói riêng. 

5. Kết luận

Giáo dục đại học là bậc học quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Để nâng cao chất lượng cũng như sự công bằng trong giáo dục đại học thì cần thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục đại học và kết hợp nhiều giải pháp khác nhau để đạt kết quả tốt nhất, đặc biệt, thế hệ trẻ hiện nay sẽ là nhân tố, điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, góp phần tạo ra nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có năng lực, phẩm chất đạo đức để thực hiện đất nước ngày càng giàu mạnh và phồn vinh. 

Chú thích 
1. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491.
2. Bảo đảm công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825246/bao-dam-cong-bang-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay-theo-tu-tuong-ho-chi-minh.aspx,
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 26.
4. C.Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập (1995). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 730.
5. V.I.Lênin Toàn tập (2005). Tập 32. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 196.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 101.
7. Đại học xét tuyển sớm giữa những e ngại về “công bằng”. https://vnexpress.net/dai-hoc-xet-tuyen-som-giua-nhung-e-ngai-ve-cong-bang-4725519.html.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố kết quả tuyển sinh theo lĩnh vực. https://baodautu.vn/bo-giao-duc-va-dao-tao-cong-bo-ket-qua-tuyen-sinh-theo-linh-vuc-d210896.html.
9. Giáo dục cho trẻ dân tộc thiểu số: Bất cập và cản trở. https://tiasang.com.vn/giao-duc/giao-duc-cho-tre-dan-toc-thieu-so-bat-cap-va-can-tro.
10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 138, 139.