Vai trò của mô hình kinh tế hợp tác xã trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

TS. Hoàng Văn Mạnh
Trường Đại học Thương mại

(Quanlynhanuoc.vn) – Mục tiêu nghiên cứu làm rõ vai trò đa diện của mô hình kinh tế Hợp tác xã trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ sau “Đổi mới” năm 1986 đến nay. Đối chiếu các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2023 với các mục tiêu đề ra cho thấy, mô hình Hợp tác xã kiểu mới phù hợp và có khả năng đóng góp quan trọng vào việc hiện thực hóa các mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Bài viết nghiên cứu thực trạng nhằm đánh giá những đóng góp cụ thể của khu vực hợp tác xã vào phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, thực hành dân chủ cơ sở và củng cố quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó đề xuất các nhóm giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của mô hình kinh tế hợp tác xã, góp phần thực hiện thành công mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Hợp tác xã, chủ nghĩa xã hội, quản lý nhà nước, Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Sau năm 1986, công cuộc “Đổi mới” ở Việt Nam đã tạo ra những thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế – xã hội, trong đó có sự chuyển đổi căn bản của khu vực kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã. Từ mô hình hợp tác xã tập thể hóa hành chính, Việt Nam đã từng bước xây dựng và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi. Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là thành phần kinh tế góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, sự phát triển và đóng góp của khu vực hợp tác xã đối với việc đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu nhằm đánh giá khách quan vai trò thực tế và tiềm năng của các hợp tác xã trong việc thực hiện các mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là rất cần thiết, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách và thúc đẩy mô hình này phát triển bền vững.

Dựa trên phương pháp nghiên cứu định tính với việc sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn khác nhau, bao gồm: các văn kiện của Đảng liên quan đến chủ nghĩa xã hội và kinh tế tập thể; các văn bản pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là Luật Hợp tác xã qua các thời kỳ (1996, 2003, 2012, 2023); các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan chức năng; các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học uy tín được công bố trên các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước. Dữ liệu được xử lý thông qua các kỹ thuật phân tích tài liệu, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa và phương pháp lịch sử – logic. Các luận điểm, nhận định được xác định trên cơ sở phân tích mối liên hệ biện chứng giữa lý luận về chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc hợp tác xã và thực tiễn phát triển hợp tác xã tại Việt Nam từ 1986 đến nay.

2. Tổng quan vai trò của mô hình kinh tế hợp tác xã trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Luật Hợp tác xã Việt Nam năm 2023 quy định: hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 5 thành viên chính thức tự nguyện thành lập, hợp tác tương trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung về kinh tế, văn hóa, xã hội của thành viên góp phần xây dựng cộng đồng xã hội phát triển bền vững. Khái niệm này nhấn mạnh bản chất tự nguyện, dân chủ, hợp tác và mục tiêu phục vụ thành viên, đồng thời hướng đến lợi ích cộng đồng, vốn là những giá trị cốt lõi tương đồng với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mô hình hợp tác xã với các nguyên tắc tổ chức, quản lý và hoạt động đặc thù, có tiềm năng to lớn đóng góp vào việc hiện thực hóa các mục tiêu và đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phát triển kinh tế tập thể là một trong những phương thức để khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, là nền tảng quan trọng để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2022).

Nguyên tắc “Tự nguyện tham gia và mở rộng kết nạp thành viên” là nền tảng đầu tiên, thể hiện quyền tự do của công dân trong việc lựa chọn hình thức tổ chức kinh tế, phù hợp với bản chất dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc cá nhân, tổ chức tự nguyện tham gia hợp tác xã và hợp tác xã mở rộng kết nạp thành viên không phân biệt giới tính, địa vị, dân tộc, tôn giáo phản ánh trực tiếp mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, đoàn kết – một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nguyên tắc này khẳng định sự tôn trọng quyền con người, quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, góp phần giải phóng sức sản xuất và tạo động lực cho người lao động tham gia xây dựng kinh tế, làm giàu cho bản thân và xã hội. Sự tự nguyện còn là cơ sở để xây dựng lòng tin và sự gắn kết giữa các thành viên, tạo nên sức mạnh tập thể đích thực, phù hợp với tinh thần do “Nhân dân làm chủ” của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nguyên tắc “Dân chủ, bình đẳng trong tổ chức, quản lý” là sự cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế ở cấp cơ sở. Việc thành viên có quyền dân chủ trong quyết định tổ chức, hoạt động và tham gia quản lý hợp tác xã một cách bình đẳng, không phụ thuộc vào vốn góp chính là thực hành dân chủ trực tiếp góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là ưu điểm vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác, nơi quyền lực thường tỷ lệ thuận với vốn góp. Thực hiện tốt nguyên tắc này trong hợp tác xã không chỉ giúp quản trị hiệu quả, minh bạch mà còn giáo dục ý thức dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ cho thành viên, đặc biệt là nông dân và người lao động ở vùng sâu, vùng xa (Nguyễn Văn Đoàn, 2021). Qua đó, hợp tác xã trở thành trường học thực tiễn về dân chủ, góp phần củng cố bản chất “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” của Nhà nước và chế độ, là đặc trưng nền tảng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Sự dân chủ và bình đẳng trong hợp tác xã còn giúp hạn chế sự phân hóa giàu nghèo quá mức, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các thành viên, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội.

Nguyên tắc “Trách nhiệm tham gia hoạt động kinh tế của thành viên” và phân phối thu nhập chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ hoặc mức độ đóng góp sức lao động, bên cạnh việc phân phối theo vốn góp, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lao động và vốn. Điều này phù hợp với định hướng xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nơi các hình thức sở hữu và phân phối cùng tồn tại và phát triển. Việc thành viên góp vốn, cùng kiểm soát tài sản và tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế của hợp tác xã không chỉ tạo ra nguồn lực cho hợp tác xã phát triển mà còn tăng cường ý thức trách nhiệm, sự gắn bó của thành viên với tập thể. Cơ chế phân phối này khuyến khích thành viên tích cực lao động, sáng tạo, sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, đồng thời, bảo đảm sự công bằng tương đối góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu” bền vững và công bằng, hạn chế bóc lột, phân hóa xã hội.

Nguyên tắc “Tự chủ và tự chịu trách nhiệm” khẳng định vị thế độc lập của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường, hoạt động theo pháp luật. Sự tự chủ giúp hợp tác xã năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, thích ứng với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tự chịu trách nhiệm, đòi hỏi hợp tác xã phải tuân thủ pháp luật, bảo đảm quyền lợi của thành viên, đối tác và cộng đồng. Nguyên tắc này phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường, đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc trao quyền tự chủ cho hợp tác xã là tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển thực chất, trở thành một bộ phận cấu thành vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng chính là biểu hiện của việc phát huy vai trò chủ thể của các tổ chức kinh tế cơ sở, góp phần xây dựng một xã hội năng động, hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Nguyên tắc “Chú trọng giáo dục, đào tạo và thông tin” đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý và ý thức cộng đồng cho thành viên và người lao động. Việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể giúp thành viên hiểu đúng vai trò, vị trí của hợp tác xã trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực giúp thành viên và cán bộ hợp tác xã đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng. Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời giúp thành viên tham gia quản lý, giám sát hoạt động hợp tác xã một cách hiệu quả. Nguyên tắc này trực tiếp góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện – những đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Thông qua giáo dục và đào tạo, hợp tác xã không chỉ là tổ chức kinh tế mà còn là môi trường văn hóa góp phần nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập.

Nguyên tắc “Tăng cường hợp tác, liên kết” là chìa khóa để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã trong bối cảnh hội nhập. Việc các thành viên hợp tác, tương trợ lẫn nhau, các hợp tác xã liên kết thành lập Liên hiệp Hợp tác xã, tham gia chuỗi giá trị, liên kết với doanh nghiệp giúp khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, công nghệ và vốn. Sự hợp tác, liên kết này thể hiện bản chất ưu việt của kinh tế tập thể, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển sản xuất lớn, hiện đại, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện mục tiêu “nước mạnh”. Liên kết còn tạo ra không gian chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ – một giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Việc khuyến khích hợp tác xã tham gia tổ chức đại diện (Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) cũng góp phần bảo vệ quyền lợi, thúc đẩy phong trào hợp tác xã phát triển, tăng cường vai trò của kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân.

Nguyên tắc “Quan tâm phát triển cộng đồng” thể hiện trách nhiệm xã hội của hợp tác xã, vượt ra ngoài phạm vi lợi ích kinh tế thuần túy của thành viên. Việc hợp tác xã và thành viên chăm lo xây dựng cộng đồng đoàn kết, tương trợ, tham gia phát triển cộng đồng dân cư tại địa phương khẳng định vai trò của hợp tác xã trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh (Nguyễn Văn Đoàn, 2021). Điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng một xã hội “công bằng, văn minh”, nơi con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Hợp tác xã không chỉ là đơn vị kinh tế mà còn là một tế bào xã hội tích cực, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi. Vai trò này càng làm sâu sắc thêm tính chất xã hội chủ nghĩa của mô hình hợp tác xã kiểu mới ở Việt Nam.

Hệ thống các nguyên tắc tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2023 không chỉ định hình mô hình hợp tác xã kiểu mới năng động, hiệu quả mà còn thể hiện sự tương thích sâu sắc với các mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đang xây dựng. Việc phát triển thành công các hợp tác xã hoạt động đúng bản chất, đúng nguyên tắc sẽ là một đóng góp quan trọng, trực tiếp vào việc hiện thực hóa các mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã không chỉ là yêu cầu kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

3. Phát huy vai trò của mô hình kinh tế hợp tác xã trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ sau “Đổi mới” cho đến nay

Kể từ khi thực hiện đường lối “Đổi mới” năm 1986, đặc biệt là sau khi Luật Hợp tác xã năm 1996 và các luật sửa đổi, bổ sung sau đó (2003, 2012, 2023), khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam đã có những bước chuyển mình quan trọng, từng bước khẳng định lại và phát huy vai trò trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng không thể phủ nhận những đóng góp tích cực của hợp tác xã trên nhiều phương diện, góp phần thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội do Đảng đề ra.

(1) Đóng góp của mô hình kinh tế hợp tác xã vào việc thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

Một là, góp phần phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.

 Khu vực hợp tác xã, đặc biệt là Hợp tác xã nông nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lại sản xuất, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị nông sản. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong quá trình kiến tạo và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nhị Lê & Nguyễn Thị Thu Huyền, 2022).

Nhiều hợp tác xã đã trở thành cầu nối hiệu quả giữa nông dân và doanh nghiệp, thị trường, giúp tiêu thụ sản phẩm ổn định, tăng thu nhập cho thành viên. Hợp tác xã phi nông nghiệp cũng phát triển đa dạng trong các lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ, vận tải, tín dụng…, tạo việc làm, tăng thu nhập, đóng góp vào tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh tế tập thể, hợp tác xã vừa đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế (theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011 – 2020, khu vực kinh tế thị trường đóng góp gần 4% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP)); vừa đóng góp gián tiếp thông qua tác động tới kinh tế hộ thành viên, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình (hiện nay đang chiếm khoảng 30% GDP cả nước (Lê Minh Khái, 2024). Mặc dù tỷ trọng đóng góp trực tiếp vào GDP chưa cao, nhưng vai trò gián tiếp của hợp tác xã thông qua hỗ trợ kinh tế hộ thành viên là rất lớn, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Sự phát triển của các hợp tác xã góp phần củng cố thành phần kinh tế tập thể, cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò nền tảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bảng 1: Một số chỉ số phản ánh sự phát triển của mô hình kinh tế hợp tác xã giai đoạn 2016 – 2023

STTNămSố hợp tác xãSố hợp tác xã làm ăn có hiệu quảTỷ lệ % hợp tác xã có hiệu quảSố thành viên của hợp tác xãSố lao động của hợp tác xã
1201619.5699.9851,0%5.529.4621.180.324
2201720.85610.63751,0%5.569.1381.154.519
3201822.86112.305 (3.008 Tốt + 9.297 Khá)53,9%5.639.5711.132.238
4201924.6113.438 (3.298 Tốt + 10.140 Khá)54,6%5.697.2321.135.432
5202026.1914.192 (3.797 Tốt + 10.395 Khá)54,2%5.734.9011.102.068
6202127.44515.000 (4.227 Tốt + 10.772 Khá)54,7%5.756.6631.069.840
7202229.40116.907 (5.234 Tốt + 11.673 Khá)57,5%5.822.5571.085.868
8202331.39919.447 (6.280 Tốt + 13.167 Khá)61,9%5.932.6141.132.348
Nguồn: Tổng hợp từ Sách trắng về hợp tác xã Việt Nam các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024.

Số liệu trong bản trên cho thấy, sự gia tăng về số lượng hợp tác xã, thể hiện sự phục hồi và phát triển của khu vực này sau “Đổi mới”. Tuy số lượng thành viên và lao động có xu hướng giảm nhẹ (có thể do thay đổi cách thống kê hoặc sự chuyển dịch cơ cấu), nhưng quy mô và chất lượng hoạt động của nhiều hợp tác xã đã được nâng lên.

Hai là, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Đây là một trong những đóng góp nổi bật và mang đậm tính ưu việt của mô hìnhhHợp tác xã, trực tiếp hướng tới mục tiêu “công bằng” trong chủ nghĩa xã hội. Hợp tác xã tạo cơ hội việc làm và thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động, đặc biệt là ở nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nơi các loại hình doanh nghiệp khác khó vươn tới. Thông qua các hoạt động hỗ trợ sản xuất (cung ứng vật tư, dịch vụ kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm), tín dụng nội bộ, hợp tác xã giúp thành viên, nhất là các hộ nghèo, cận nghèo, có điều kiện phát triển kinh tế, cải thiện đời sống. Nhiều hợp tác xã còn tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ thành viên lúc khó khăn, ốm đau, xây dựng nhà tình thương góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo tại cộng đồng. Việc phân phối lợi ích trong hợp tác xã không chỉ dựa vào vốn góp mà còn theo mức độ tham gia, sử dụng dịch vụ, mang lại sự công bằng tương đối, hạn chế sự phân hóa xã hội sâu sắc.

Ba là, góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Hoạt động của hợp tác xã kiểu mới dựa trên các nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch. Thành viên có quyền tham gia thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của hợp tác xã (phương án sản xuất, kinh doanh, phân phối lợi ích, bầu ban quản trị, ban kiểm soát…) thông qua Đại hội thành viên hoặc các hình thức dân chủ trực tiếp khác. Đây là môi trường thực hành dân chủ cụ thể ở cơ sở, giúp người dân nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành quyền làm chủ của mình. Hoạt động theo luật pháp, dưới sự quản lý của Nhà nước, hợp tác xã góp phần củng cố trật tự, kỷ cương, xây dựng ý thức pháp luật cho thành viên. Mối quan hệ giữa Nhà nước và hợp tác xã chuyển từ can thiệp hành chính sang hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thể hiện rõ hơn bản chất Nhà nước phục vụ Nhân dân.

Bốn là, góp phần xây dựng nông thôn mới, phát triển cộng đồng. Hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là tiêu chí về tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn. Các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là chủ thể quan trọng trong việc liên kết sản xuất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao, xây dựng thương hiệu nông sản, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống người dân nông thôn. Bên cạnh đó, nhiều hợp tác xã còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, kênh mương nội đồng), bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tại địa phương, thể hiện rõ nguyên tắc “Quan tâm phát triển cộng đồng” góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, hướng tới mục tiêu xã hội “văn minh”.

Năm là, góp phần củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự phát triển của kinh tế tập thể, hợp tác xã góp phần khẳng định tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cho quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu công cộng (hợp tác xã là một hình thức biểu hiện ở mức độ nhất định với sở hữu tập thể) ngày càng được củng cố bên cạnh các hình thức sở hữu khác. Hợp tác xã là nơi tập hợp, đoàn kết những người lao động có cùng nhu cầu, lợi ích, không phân biệt thành phần, dân tộc, tôn giáo, cùng nhau hợp tác làm ăn, cải thiện cuộc sống. Môi trường hợp tác, tương trợ trong Hợp tác xã giúp tăng cường sự gắn bó cộng đồng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ cơ sở, tạo nền tảng xã hội vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhìn chung, khu vực hợp tác xã đã được phục hồi và có bước phát triển đáng kể về số lượng, đa dạng hơn về loại hình, lĩnh vực hoạt động so với thời kỳ trước “Đổi mới” và giai đoạn đầu “Đổi mới”. Có nhiều hợp tác xã đã chuyển đổi thành công sang mô hình kiểu mới, hoạt động theo Luật Hợp tác xã, tuân thủ các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, tự chủ, bước đầu thích ứng với cơ chế thị trường. Hợp tác xã đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn: tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy liên kết sản xuất, xây dựng nông thôn mới. Hợp tác xã góp phần thực hành dân chủ ở cơ sở, tăng cường đoàn kết cộng đồng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội. Nhận thức của xã hội và bản thân các hợp tác xã về vai trò, vị trí của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống pháp luật, chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã ngày càng được hoàn thiện.

Tuy nhiên, trong thực tiễn sự phát triển của hợp tác xã còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tốc độ tăng trưởng còn chậm, đóng góp vào GDP còn khiêm tốn. Phần lớn hợp tác xã có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu vốn, khó tiếp cận tín dụng chính thức. Chất lượng hoạt động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của nhiều hợp tác xã còn thấp. Năng lực quản trị, điều hành của đội ngũ cán bộ hợp tác xã còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và giữa hợp tác xã với doanh nghiệp còn yếu và thiếu bền vững. Nhiều hợp tác xã còn hoạt động hình thức, thụ động, chưa thực sự phát huy vai trò hỗ trợ thành viên hiệu quả. Sự tham gia của thành viên vào hoạt động và quản lý hợp tác xã còn hạn chế, một bộ phận thành viên chưa hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, còn tâm lý trông chờ, ỷ lại. Việc thể chế hóa và thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển hợp tác xã ở một số nơi còn chậm, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về hợp tác xã còn chồng chéo, bất cập.

Nguyên nhân có thể kể đến, như: cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt; những tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, dịch bệnh; hạ tầng cơ sở ở nhiều vùng (nhất là nông thôn, miền núi) còn yếu kém; nhận thức xã hội về mô hình hợp tác xã kiểu mới nhiều khi còn định kiến do ảnh hưởng của mô hình cũ. Năng lực nội tại yếu (vốn, công nghệ, quản trị, nhân lực); thiếu chiến lược phát triển dài hạn; chưa chủ động, sáng tạo trong tìm kiếm thị trường, liên kết hợp tác; việc thực hiện các nguyên tắc hợp tác xã (đặc biệt là dân chủ, công khai, minh bạch) ở một số nơi còn hình thức; lợi ích mang lại cho thành viên chưa rõ ràng, chưa đủ sức hấp dẫn. Một số chính sách hỗ trợ (đất đai, tín dụng, thuế, đào tạo…) chưa thực sự đi vào cuộc sống, khó tiếp cận hoặc chưa phù hợp; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách về hợp tác xã chưa sâu rộng, hiệu quả; vai trò của Liên minh Hợp tác xã các cấp trong hỗ trợ, tư vấn, bảo vệ quyền lợi hợp tác xã có lúc, có nơi còn mờ nhạt; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn thiếu chặt chẽ.

Việc phát huy vai trò của hợp tác xã còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ và phát huy hết tiềm năng của hợp tác xã trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội chủ nghĩa; chưa gắn kết chặt chẽ việc phát triển hợp tác xã với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; thiếu các mô hình hợp tác xã điển hình, có sức lan tỏa mạnh mẽ để minh chứng cho vai trò và tính ưu việt của nó trong bối cảnh mới.

4. Giải pháp tăng cường vai trò của mô hình hợp tác xã thời gian tới

Để các hợp tác xã thực sự trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa các mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp mang tính đột phá, khắc phục những hạn chế đã chỉ ra.

(1) Hoàn thiện thể chế, chính sách và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Hợp tác xã năm 2023 kịp thời, đồng bộ, khả thi, bảo đảm tính nhất quán và phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là các quy định về đất đai, tín dụng, thuế, chính sách hỗ trợ đặc thù cho từng loại hình, lĩnh vực hợp tác xã (nông nghiệp công nghệ cao, hợp tác xã tạo việc làm, hợp tác xã cộng đồng…). Cần có cơ chế rõ ràng để xử lý dứt điểm các hợp tác xã yếu kém kéo dài, hoạt động hình thức, đồng thời khuyến khích thành lập các hợp tác xã kiểu mới hoạt động thực chất.

Đổi mới tư duy và phương thức quản lý nhà nước. Chuyển mạnh từ quản lý hành chính sang phục vụ, kiến tạo phát triển. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý và kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho hợp tác xã phát triển; giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà; tăng cường hậu kiểm thay vì tiền kiểm. Cần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng hỗ trợ, dịch vụ công cho hợp tác xã, tránh chồng chéo, nâng cao trách nhiệm của từng cơ quan.

Xây dựng và triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm. Chính sách hỗ trợ cần cụ thể, thiết thực, dễ tiếp cận và tập trung vào các khâu yếu, như: hỗ trợ thành lập mới, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng khoa học – công nghệ, xúc tiến thương mại, tiếp cận tín dụng ưu đãi, phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất, xây dựng chuỗi giá trị. Cần có cơ chế đánh giá hiệu quả thực thi chính sách thường xuyên để kịp thời điều chỉnh. Đặc biệt, cần chính sách đủ mạnh để khuyến khích liên kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác.

Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức. Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng về bản chất tốt đẹp, vị trí, vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng nhiều hình thức đa dạng, hấp dẫn. Cần làm rõ sự khác biệt căn bản giữa hợp tác xã kiểu mới và mô hình hợp tác xã cũ để xóa bỏ định kiến, tạo sự đồng thuận xã hội và thu hút người dân, nhất là thế hệ trẻ, tham gia phát triển hợp tác xã.

(2) Nâng cao năng lực nội tại và hiệu quả hoạt động của hợp tác xã.

Củng cố tổ chức, đổi mới quản trị theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch: hợp tác xã cần xây dựng quy chế hoạt động dân chủ, công khai, minh bạch; kiện toàn bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả; nâng cao vai trò của Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Khuyến khích thuê giám đốc điều hành có năng lực, chuyên môn. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc hợp tác xã, đặc biệt là nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và phân phối lợi ích công bằng, hợp lý để tạo động lực và sự gắn bó của thành viên.

Nâng cao năng lực tài chính: khuyến khích thành viên góp vốn đầy đủ, đúng hạn; xây dựng cơ chế huy động vốn nội bộ hiệu quả. Đa dạng hóa các nguồn vốn huy động từ bên ngoài (vay ngân hàng, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, các dự án, đối tác…). Nhà nước cần có cơ chế tín dụng ưu đãi phù hợp, thủ tục đơn giản để hợp tác xã dễ dàng tiếp cận vốn, đặc biệt là các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã ở vùng khó khăn.

Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực: chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản trị, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức thị trường cho đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã. Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết cho thành viên để họ tham gia hiệu quả vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý hợp tác xã. Gắn kết công tác đào tạo với nhu cầu thực tế của hợp tác xã và thị trường lao động.

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo: khuyến khích, hỗ trợ hợp tác xã đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến, sản xuất theo tiêu chuẩn (VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ…), nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và năng lực cạnh tranh. Hỗ trợ hợp tác xã xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Tăng cường liên kết, hợp tác: chủ động tìm kiếm đối tác, xây dựng các mối liên kết bền vững theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đầu tàu. Phát triển các hình thức liên kết ngang giữa các hợp tác xã để hình thành các liên hiệp hợp tác xã đủ mạnh, nâng cao vị thế trên thị trường. Khuyến khích hợp tác xã tham gia các hiệp hội ngành hàng.

(3) Phát huy vai trò của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

Nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Hệ thống Liên minh Hợp tác xã cần thực sự là tổ chức đại diện tin cậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hợp tác xã, thành viên. Tăng cường năng lực tư vấn, hỗ trợ hợp tác xã về pháp lý, kỹ thuật, thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực. Chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển hợp tác xã và giám sát việc thực thi. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ nguồn lực.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Tăng cường tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia xây dựng và phát triển hợp tác xã. Phối hợp giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách về hợp tác xã. Tham gia hỗ trợ hợp tác xã trong các hoạt động đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường, góp phần gắn kết hợp tác xã với cộng đồng dân cư.

(4) Gắn kết phát triển hợp tác xã với các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội

Lồng ghép mục tiêu, nhiệm vụ phát triển hợp tác xã vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, ngành và địa phương. Đặc biệt, gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững, Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Nhận thức rõ và khai thác hiệu quả vai trò của hợp tác xã trong việc thực hiện các mục tiêu cụ thể của chủ nghĩa xã hội, như: thực hành dân chủ cơ sở, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng con người mới, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh tại địa bàn. Cần có cơ chế khuyến khích, tôn vinh các hợp tác xã làm tốt vai trò này.

5. Kết luận

Nghiên cứu đã hệ thống hóa và phân tích vai trò quan trọng của các hợp tác xã trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ sau Đổi mới 1986. Về mặt lý luận, các nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã kiểu mới theo Luật thể hiện sự tương thích và có khả năng đóng góp tích cực vào việc hiện thực hóa các mục tiêu đề ra. Về thực tiễn, khu vực hợp tác xã đã có những đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, thực hành dân chủ cơ sở và xây dựng nông thôn mới, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế và chưa phát huy hết tiềm năng. Để hợp tác xã thực sự trở thành động lực quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có các giải pháp đồng bộ, đột phá về thể chế, chính sách, nâng cao năng lực nội tại của các hợp tác xã, phát huy vai trò của các tổ chức liên quan và gắn kết chặt chẽ phát triển hợp tác xã với các mục tiêu phát triển quốc gia.

Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2023). Luật Hợp tác xã năm 2023.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Nguyễn Văn Đoàn (2021). Phát triển mô hình Hợp tác xã kiểu mới ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 1/2021.
5. Để kinh tế tập thể, nòng cốt là Hợp tác xã, phát triển bền vững, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. https://www. tapchicongsan.org. vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf /content/de-kinh -te-tap-the-nong-cot-la-hop-tac-xa-phat-trien-ben-vung-gop-phan-quan-trong-trong-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cua-dat-nuoc.
6. Phát triển kinh tế tập thể và Hợp tác xã: Con đường của thế giới và nhu cầu tất yếu với Việt Nam. https://tapchicongsan.org.vn/web /guest/ nghien -cu/-/2018/825785/phat-trien-kinh-te-tap-the-va-hop-tac-xa -con- duong-cua-the-gioi-va- nhu-cau-tat-yeu-voi-viet-nam.aspx.
7. Phát triển kinh tế tập thể, Hợp tác xã hướng đến mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ phat-trien-kinh-te-tap-the-hop-tac-xa-huong-den-muc-tieu-xay-dung-xa-hoi-dan-giau-nuoc-manh-dan-chu-cong-bang-van-minh.
8. Sách trắng Hợp tác xã Việt Nam các năm 2020-2024. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2020/04/Sach-Trang-Hợp tác xã-2020.pdf.