TS. Chử Văn Tuyên
Đại học Thành Đô
TS. Vũ Văn Long
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Việc khẳng định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo lực đẩy cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, là sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; kinh tế quốc gia; kinh tế tư nhân; kinh tế thị trường; động lực quan trọng.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân khẳng định quan điểm: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững”1. Tuy nhiên, xung quanh nội dung này, vẫn còn những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia là trái với lý luận Mác – Lênin, trái với luận điểm “xóa bỏ tư hữu” mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đề cập đến khi viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (02/1848). Bài viết luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn, góp phần làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chủ trương phát triển kinh tế tư nhân.
2. Về luận điểm “xoá bỏ tư hữu” của C. Mác – Ph.Ăng-ghen
Khi nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã nhìn thấy sự tồn tại nhiều mâu thuẫn mà nổi bật là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đồ sộ, xã hội hóa rộng lớn và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Các nhà tư bản tìm mọi cách để bóc lột ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, đẩy giai cấp công nhân và nhân dân lao động đến cuộc sống nghèo khổ mà Ph.Ăng-ghen miêu tả như “cừu ăn thịt người”. Vì lẽ đó, nhất thiết phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà bộ phận quan trọng nhất trong đó là quan hệ sở hữu.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (02/1848), C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra luận điểm nổi tiếng cũng là mục đích cao cả của giai cấp vô sản: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”2. Tuy nhiên, cần phải hiểu quan điểm trên một cách biện chứng, mục tiêu của giai cấp vô sản không phải là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản, chế độ đẻ ra nạn người bóc lột người. C. Mác đã khẳng định: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”3.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng khẳng định, việc xóa bỏ chế độ tư hữu không phải dễ dàng, trong thời gian ngắn mà sẽ phải “kinh qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ph. Ăng-ghen cho rằng: “Không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”4. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển xã hội và được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa.
Kế thừa những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về vấn đề sở hữu, V.I.Lê-nin đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa…”5. V.I. Lê-nin cũng cho rằng phải hiểu cặn kẽ chủ nghĩa xã hội không có nghĩa là xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân, mà chỉ xóa bỏ quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản. Trên cương vị lãnh tụ nước Nga Xôviết (từ năm 1922 là Liên Xô), V.I.Lê-nin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP). Với việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, nước Nga đã huy động được mọi nguồn lực, làm sống lại nền kinh tế của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản, đem lại sự khởi sắc nền kinh tế – xã hội sau chiến tranh.
Như vậy, trong các tác phẩm cũng như trong thực tiễn hoạt động cách mạng, C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I.Lê-nin không bao giờ phủ nhận sạch trơn tư hữu nói chung mà chỉ xóa bỏ tư hữu tư sản. Thậm chí, V.I.Lê-nin còn thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu trong đó tạo điều kiện cho tư sản, phú nông và nông dân phát triển, tạo động lực quan trọng để nước Nga Xôviết vượt qua thời khắc khó khăn. Cố tình xóa bỏ tư hữu nói chung, hạn chế kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là trái với lý luận Mác – Lênin về sở hữu.
3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân qua 40 năm đổi mới
Ở Việt Nam, trong 10 năm đầu lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1976 – 1985), Đảng đã nhận thức không đúng về quan hệ sở hữu, về các thành phần kinh tế. Đại hội VI (12/1976) và Đại hội V (3/1982) của Đảng đều ghi vào nghị quyết nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ đó, song cả hai nhiệm kỳ đều không thực hiện được. Thực tế là, chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, với hai thành phần kinh tế – xã hội chủ nghĩa là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế – xã hội bắt đầu từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và ngày càng trầm trọng, kéo dài.
Đại hội VI của Đảng (12/1986), Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, khẳng định: “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”6. Đây thực sự là nhận thức mới của Đảng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Kể từ đây, nhận thức của Đảng về quan hệ sở hữu, về thành phần kinh tế ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn, các thành phần kinh tế có điều kiện thuận lợi để phát triển, góp phần vào sự nghiệp xây xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI (01/2011) xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có đặc trưng nổi bật về kinh tế là: “…có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”7.Đây chính là định hướng cơ bản của Đảng về lựa chọn chế độ sở hữu phù hợp với tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay; đồng thời, khẳng định tầm tư duy lãnh đạo và bản lĩnh chính trị của Đảng.
Cụ thể hóa Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội XII của Đảng (01/2016) khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” 8. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 5, khóa XII của Đảng đã ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TW (6/2017), trong đó đưa ra các quan điểm chỉ đạo để phát triển kinh tế tư nhân. Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (01/2021) chủ trương phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Đại hội chỉ rõ: “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế”9. Tiếp đó, Bộ Chính trị (khoá XIII) đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 về Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
Đặc biệt, ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị (khoá XIII) đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW Về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết đã khẳng định những thành tựu phát triển kinh tế tư nhân sau gần 40 năm đổi mới; trong đó khẳng định kinh tế tư nhân đã trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; với khoảng 1 triệu doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.
Mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn những tồn tại, hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, nội lực và chưa đóng góp xứng đáng cho kinh tế quốc gia. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân đề ra tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017 chưa đạt được. Chủ yếu các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, siêu nhỏ, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế; năng suất lao động thấp; tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp. Việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, nhất là về tài chính, tín dụng, đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao. Một bộ phận doanh nghiệp tư nhân chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh còn hạn chế (cạnh tranh thiếu lành mạnh, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm hợp đồng…). Một số doanh nghiệp tư nhân còn tham gia vào buôn lậu, trốn thuế, thao túng thị trường, găm hàng, đội giá. Có nhiều nguyên nhân bao gồm cả khách quan, chủ quan dẫn đến những tồn hạn, hạn chế nêu trên, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu; trong đó, tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật vẫn là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, gây cản trở phát triển kinh tế tư nhân…
Trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân, Nghị quyết số 68/NQ-TW đã xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân; trong đó khẳng định rõ kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia; đây vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa manh tính chiến lược, lâu dài, cần được cụ thể hoá trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước; xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan điểm, thái độ định kiến với kinh tế tư nhân, coi doanh nhân là những chiến sỹ trên mặt trận kinh tế; đồng thời, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, chủ chủ thể. 5 quan điểm được xác định trong Nghị quyết là một thể thống nhất từ tư duy, nhận thức đến chủ trương, cơ chế, chính sách và phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị nhằm phát triển kinh tế tư nhân.
Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; trong đó nhằm mục tiêu cao nhất là đưa “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị”10.
Để đạt được các mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn 2045, cần thực hiện 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách mạnh mẽ, bảo đảm bám sát ba đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng) và trong tổng thể 4 Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, gồm: (1) Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; (2) Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; (3) Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật; (4) Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.
Nội dung trọng tâm của 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất đối với phát triển kinh tế tư nhân hiện nay: (1) Đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân; (2) Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân; (3) Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao; (4) Thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân; (5) Tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI; (6) Hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu; (7) Hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh; (8) Đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước.
4. Kết luận
Như vậy, việc khẳng định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là một bước tiến lớn về nhận thức, bước đổi mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế, không hề mâu thuẫn với luận điểm “xóa bỏ tư hữu” mà là sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Phát triển kinh tế tư nhân không những tạo ra động lực, huy động sức sản xuất để đưa Việt Nam tiến lênmạnh mẽ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mà còn góp phần làm phong phú thêm, khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Chú thích
1, 10. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, tr. 2, 3.
2, 3, 4. C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập (1995). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr.616, 615, 469.
5. V. I. Lê-nin toàn tập (1978). Tập 6. H. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, tr.518.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X). Phần I. H. NXB Chính trị quốc gia, 2010, tr.41.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 70.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 102 – 103.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 240.
Tài liệu tham khảo
1. Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng. https://baochinhphu.vn/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-don-bay-cho-mot-viet-nam-thinh-vuong-10225031716522207.htm, ngày 17/3/2015.
2. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân – động lực mới phát triển kinh tế. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/05/11/thuc-day-phat-trien-manh-me-kinh-te-tu-nhan-dong-luc-moi-phat-trien-kinh-te/, ngày 11/5/2025.
3. Vận dụng lý luận về sở hữu của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/816751/van-dung-ly-luan-ve-so-huu-cua-chu-nghia-mac—le-nin-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam.aspx. ngày 17/6/2020.
4. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở hữu trong nền kinh tế số. https://lyluanchinhtri.vn/van-dung-ly-luan-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-so-huu-trong-nen-kinh-te-so-397.html, ngày 27/02/2020.