Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

TS. Nguyễn Văn Sơn.
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế “đóng vai trò chủ đạo”, vai trò đó được thể hiện trước hết ở các doanh nghiệp nhà nước, lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở các thời kỳ khác nhau của đất nước cũng được thể hiện khác nhau. Trong bài viết, chúng tôi góp phần làm sáng tỏ vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp để doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt vai trò dẫn dắt, tạo động lực, là lực lượng vật chất để Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Từ khóa: Doanh nghiệp nhà nước, kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước, vai trò chủ chốt, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình.

1. Quan điểm của Đảng về vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế

Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng xác định: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế này, vai trò của kinh tế nhà nước được thể hiện: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”1. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta không coi nhẹ kinh tế tư nhân: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế”, song luôn nhấn mạnh “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện tập trung ở các doanh nghiệp nhà nước, lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước và được thể hiện trên hai phương diện là chính trị và kinh tế.

Trên phương diện chính trị, doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nó trở thành “là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước hướng dẫn điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô”2. Với quan điểm này, doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm ổn định về mặt xã hội; tạo ra một xã hội công bằng, bình đẳng, tạo môi trường, cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, ổn đinh xã hộ, tạo điều kiện cho kinh tế tế  vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo …phát triển nhằm mục tiêu đưa nền kinh tế đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trên phương dện kinh tế, doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh giống như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế. Đảng khẳng định “Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu trong ứng dụng về khoa học – công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật”3. Trên phương diện này, doanh nghiệp nhà nước giống như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế phải tiến hành sản xuất – kinh doanh, tính toán thu, chi, lỗ, lãi và nộp thuế cho nhà nước, ngoài ra còn phải dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, phải đi đầu trong việc ứng dụng về khoa học công nghệ, phải làm gương cho các thành phần kinh tế khác noi theo.

Hiện nay, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới, được Đảng xác định: “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu… thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại4.

Để thực hiện được mục tiêu trên, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải được cụ thể hóa trong điều kiện mới với các nội dung mới để có thể làm tốt vai trò của mình trong nền kinh tế.

2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên mới của dân tộc

Kỷ nguyên vươn mình của đất nước là một kỷ nguyên với sự bứt phá, phát triển vượt bậc về mọi mặt của đất nước trước hết là sự phát triển, bứt phá trên lĩnh vực kinh tế. Kinh tế phải tăng trưởng cao, khác về chất so với các giai đoạt trước đây. Do đó, đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của mọi người dân, mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo và được thể hiện ở các nội dung sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước phải tiên phong, đi đầu trong tăng trưởng kinh tế, tạo động lực cho nền kinh tế tăng trưởng cao.

Nếu như trong các thời kỳ trước nền kinh tế chúng ta tăng trưởng khá từ 6% – 7% thì trong kỷ nguyên mới tốc độ tăng trưởng phải vượt bậc để đưa đất nước phát triển. Điều này đã được Đảng, Nhà nước xác định kinh tế tăng trưởng 8% năm 2025 và hơn 10% trong các năm tiếp theo. Đây là mục tiêu đầy thách thức trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang đối mặt với nhiều rủi ro từ bên trong và bên ngoài, trong nước nhu cầu sức mua của người dân chậm lại kể từ sau đại dịch Covid-19, do đứt gãy chuỗi cung ứng, dẫn đến nền kinh tế tăng trưởng chậm lại. Bên ngoài, năm 2025 Mỹ đang áp thuế quan đối ứng lên các nước, trong đó, có Việt Nam gây áp lực cho xuất khẩu của chúng ta, hiện Mỹ vẫn là nước xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã được Chính phủ, chỉ rõ “xác định rõ nhiệm vụ và sứ mệnh của doanh nghiệp nhà nước là thúc đẩy cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, mạnh mẽ hơn nữa nhưng phải bền vững, góp phần thực hiện 2 mục tiêu chiến lược 100 năm (phấn đấu đến năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; tới năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước là nước phát triển, thu nhập cao”5. Theo số liệu thống kê: “năm 2024, tổng tài sản của 671 doanh nghiệp nhà nước (473 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) đạt trên 5,6 triệu tỷ đồng, tăng 45% so với năm 2023; vốn chủ sở hữu đạt gần 3 triệu tỷ đồng, tăng 61%; tổng doanh thu đạt gần 3,3 triệu tỷ đồng, tăng 24%; lợi nhuận trước thuế gần 227,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8%; và nộp ngân sách nhà nước gần 400 nghìn tỷ đồng, tăng 9%”6.

Như vậy, các doanh nghiệp nhà nước tăng trưởng khá gần đạt được mục tiêu mà chính phủ đặt ra, tuy nhiên, bên cạch các doanh nghiệp làm ăn có lãi, đóng góp lớn cho nền kinh tế, còn có các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (năm 2023), kết quả kinh doanh năm 2023, có tới 134 doanh nghiệp còn lỗ lũy kế, tổng cộng 115.270 tỷ đồng, tương đương 4,6 tỷ USD. Mức lỗ lũy kế này gấp 1,7 lần so với ghi nhận cuối năm 2022 (gần 69.900 tỷ đồng). Trong đó, 72 doanh nghiệp lỗ phát sinh hơn 33.700 tỷ đồng. Ví dụ, “Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tiếp tục lỗ 26.700 tỷ đồng năm 2023”7. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp nhà nước phải phát triển lớn mạnh hơn nữa, phải phát triển nhanh, bền vững. Phải tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước để đủ sức vươn ra khu vực, thế giới và tạo sức lan tỏa cho các thành phần kinh tế khác và cả nền kinh tế quốc gia.

Thứ hai, các doanh nghiệp nhà nước phải tạo ra cơ sở, nền tảng cho sự phát triển trong kỷ nguyên mới.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những lĩnh vực đòi hỏi phải có các doanh nghiệp nhà nước đầu tư, phải đi trước để tạo ra điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Đó là những lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, ít lợi nhuận mà tư nhân, đầu tư nước ngoài không muốn làm, chẳng hạn, như: truyền tải điện, năng lượng, kết cấu hạ tầng, logictis…

Để kinh tế phát triển thì hạ tầng về năng lượng điện phải đi trước một bước. Do đó, Đảng, Nhà nước đã có quy hoạch điện VIII: “Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm ở phương án phụ tải cơ sở giai đoạn 2026 – 2030 là 10,3%/năm (tương ứng với mức tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam khoảng 8,0%/năm trong giai đoạn này) và phương án phụ tải cao 12,5%/năm (tương ứng với tăng trưởng GDP bình quân 10,0%/năm), bảo đảm đủ điện cho phát triển kinh tế – xã hội của nước ta”8.

Quy hoạch cho ta thấy, tăng trưởng về năng lượng điện cho nền kinh tế phải cao hơn với tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung, mới đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển trong các giai đoạn tới. Bộ Công thương đã tính toán cơ cấu nguồn điện phục vụ cho nền kinh tế là: nhiệt điện than 31.055 MW (chiếm 16,9 – 13,1%); nhiệt điện khí trong nước 10.861 MW (chiếm 5,9 – 4,6%); nhiệt điện LNG 8.824 MW (chiếm 4,8 – 3,7 %); thủy điện 33.294 – 34.667 MW (chiếm 18,2 – 14,7%); tổng công suất điện gió trên bờ tăng từ 27.791 – 28.058 MW (chiếm 13,2-14,4%); điện mặt trời (gồm điện mặt trời áp mái tập trung và điện mặt trời áp mái) tăng lên 46.459 – 73.416 MW (chiếm 25,3-31,1%); điện sản xuất từ rác và địa nhiệt là 2.979 – 4.881 MW (chiếm 1,6 – 2,1%). Về nhập khẩu điện, dự kiến chiếm khoảng 9.360 MW (chiếm 5,1 – 4,0%). Về điện hạt nhân: Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 với tổng công suất đạt 6.000 – 6.400 MW9.

Thực hiện được mục tiêu trên, cần nguồn vốn rất lớn, lên đến hàng trăm tỷ USD. Theo tính toán của Bộ Công Thương “tổng vốn đầu tư cho phát triển nguồn điện giai đoạn 2026  – 2030 khoảng 136 – 172 tỷ USD; trong đó, nguồn điện khoảng 118 – 148 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 18 – 24 tỷ USD”10. Làm được điều này chúng ta phải huy động nguồn vốn của cả xã hội, các thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

Tập đoàn Điện lực phải tính toán để không thiếu điện phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt trong giai đoạn tới với kịch bản tăng trưởng cao để bứt phá của nền kinh tế. Tập đoàn Điện lực cần có các phương án huy động vốn đầu tư cho các nhà máy điện, hệ thống truyền tải điện phù hợp để có giá bán điện phù hợp, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển và bảo đảm thu hồi vốn cho đầu tư.

Ngoài hạ tầng về năng lượng điện phục vụ cho phát triển thì hạ tầng giao thông, cũng cần được đầu tư phát triển và đi trước để dẫn dắt, như: cao tốc Bắc – Nam, đường sắt tốc độ cao, hệ thống sân bay, cảng biển… nhằm phục vụ cho sản xuất, giảm chi phí, tăng tính canh tranh cho hàng hóa Việt, phục vụ cho xuất khẩu. Chẳng hạn, hạ tầng giao thông đường bộ “Theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, định hướng đến năm 2050, mạng lưới đường bộ có 29.795 km quốc lộ, 9.014 km đường cao tốc (đến năm 2030 có 5.000 km đường cao tốc); nhu cầu vốn đầu tư mạng lưới đường bộ đến năm 2030 khoảng 900.000 tỷ đồng”11. Ngoài ra, còn đường sắt tộc độ cao Bắc – Nam đã được Quốc hội phê duyệt vốn đầu tư lên đến 67 tỷ USD, sân bay Long Thành đang triển khai xây dựng… Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước phải đi trước, đầu tư cho phát triển, tạo sự lan tỏa với các thành phần kinh tế, ngành nghề, lĩnh vực khác trong nền kinh tế.

Có thể khẳng định, những năm qua, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vững vị trí, phát huy vai trò nòng cốt, chủ lực, chủ đạo trong nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế quan trọng, góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn thông qua cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu như điện, than, xăng dầu, hóa chất cơ bản, vận tải đường hàng không, đường biển, đường sắt, viễn thông, công nghệ thông tin.

Tuy nhiên, so với yêu cầu thì doanh nghiệp nhà nước còn chưa đáp ứng được, đặc biệt là trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đòi hỏi phải có sự bứt phá, phát triển mới để tạo ra cơ sở nền tảng cho sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế và của đất nước trong giai đoạn mới.

Thứ ba, các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong đổi mới, sáng tạo ứng dụng khoa học – công nghệ.

Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay để tăng trưởng thần tốc, bứt phá mạnh mẽ, chúng ta không chỉ dựa vào lao động giá rẻ, tài nguyên dồi dào mà phải ứng dụng mạnh mẽ thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất – kinh doanh, đời sống xã hội. Các doanh nghiệp nhà nước với các tập đoàn, như: Viettel, Vinaphon, Điện lực, Xăng dầu, Hóa chất…; các Tổng công ty, như: Hàng không Việt Nam, Vinamilk,… phải đi đầu trong sản xuất – kinh doanh, đổi mới mạnh mẽ và ứng dụng khoa học – công nghệ cao vào sản xuất – kinh doanh để nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành, tăng tính canh tranh, đưa hàng hóa Việt Nam ra thế giới, từng bước mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Trong những năm qua, đã có các doanh nghiệp đi đầu trong chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, nhờ vậy đã vươn lên mạnh mẽ, có chỗ đứng trong nước và quốc tế, như: Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội Viettel đã làm chủ mạng 3G, 4G, 5G. Nhờ vậy, mạng viễn thông hệ thống internets ở Việt Nam trở nên rẻ hơn, tốc độ nhanh hơn, cạnh tranh được với các mạng viên thông trên thế giới, góp phần cho người dân và nền kinh tế phát triển, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Hay như Tổng công ty Sữa Vinamilk đã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất – kinh doanh, từ đó, chiếm lĩnh thị trường trong nước và từng bước hướng tới xuất khẩu, góp phần nâng cao giá trị thượng hiệu của hàng Việt…

Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước “mạnh” còn ít, chúng ta rất cần các doanh nghiệp nhà nước có tiềm lực lớn, có sức mạnh trong nền kinh tế, đi tiên phong trong đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất – kinh doanh, để tạo điều kiện, động lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.

Thứ tư, các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu, làm tốt vai trò gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo các quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối, dẫn dắt bởi các nguyên tắc, bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Để không ai bị bỏ lại phía sau, mọi người dân đều được hưởng thành quả của sự phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong việc gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trở thành lực lượng vật chất để Nhà nước hướng dẫn điều tiết vi mô nền kinh tế.

Những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong thực hiện an sinh xã hội, đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, xóa nhà tạm, dột nát… từ đó, tạo công ăn, việc làm, ổn định kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn thì vẫn chưa đáp ứng, tỷ lệ hộ nghèo các xã, thôn, bản vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa nhiều nơi vẫn còn cao; chênh lệch giàu – nghèo về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội giữa các vùng, nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải tích cực hơn nữa trong vai trò là đầu tàu gương mẫu trong việc khắc phục các mặt trái của kinh tế thị trường, góp phần đưa nền kinh tế phát triển lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Một số giải pháp để doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt vai trò trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

Một là, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực, dẫn dắt nền kinh tế

Kỷ nguyên mới đòi hỏi nền kinh tế phải có sự bứt phá, phát triển nhanh, mạnh mẽ và bền vững, vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước – đầu tàu của nền kinh tế phải đổi mới về quản trị, áp dụng quản trị hiện đại vào sản xuất – kinh doanh nhằm giảm chi phí, giá thành, tăng cường cạnh tranh; đồng thời, phải đa dạng hóa nguồn cung ứng, thị trường nhằm tránh phụ thuộc quá lớn vào một thị trường khi xảy ra đứt gãy chuỗi cung ứng. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần cắt giảm thủ tục hành chính trong việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước, tránh lãng phí về thời gian, công sức của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm hơn nữa trong sản xuất – kinh doanh. Bởi lẽ, chỉ khi các doanh nghiệp nhà nước phải phát triển lớn mạnh nhằm tăng sức chịu đựng, chống chọi cho nền kinh tế; đồng thời, phải vươn mình ra khu vực và thế giới, từ đó, tạo động lực nền kinh tế phát triển.

Đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cần tách bạch chức năng chính trị xã hội và chức năng kinh tế để tránh chồng chéo và làm minh bạch các chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước với các dự án phục vụ cho nhu cầu chính trị – xã hội phải lấy thước đo phục vụ xã hội làm hiệu quả, còn các dự án sản xuất – kinh doanh phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế, từ đó, góp phần năng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên mới.

Hai là, các doanh nghiệp nhà nước cần tập trung đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng, tạo cơ sở, nền  tảng cho sự phát triển kinh tế, tránh dàn trải; đồng thời, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế.

Doanh nghiệp nhà nước cần tập trung nguồn vốn vào đầu tư cho hạ tầng, như: hạ tầng điện, giao thông, logitics, hệ thống tài chính, ngân hàng… từ đó, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Ví dụ, như: Tập đoàn Điện lực phải bảo đảm đủ nguồn điện cho sự phát triển, Tập đoàn Than phải bảo đảm đủ nguồn than cho các nhà máy nhiệt điện, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn Bưu chính, viễn thông, Tổng công ty Vinaphon phải bảo đảm an ninh mạng, hạ tầng về viễn thông cho sự phát triển; các ngân hàng nhà nước, như: Viecombank, Viettin bank, BIDV, Agribak… phải bảo đảm cung cấp đủ vốn cho phát triển, đồng thời, bảo đảm an ninh, an toàn về tài chính, tín dụng, tránh đổ vỡ hệ thống tín dụng… từ đó, tạo cơ sở, nền tảng cho một kỷ nguyên mới của đất nước phát triển.

Doanh nghiệp nhà nước phải cơ cấu lại, cổ phần hóa để tập trung đầu tư cho các lĩnh vực trọng yếu, ngành nghề quan trọng. Các lĩnh vực khác không đóng vai trò quan trọng, mà các doanh nghiệp tư nhân có thể làm hoặc làm tốt hơn thì để cho các doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm, từ đó tạo động lực cho nền kinh tế.

Ba là, trong kỷ nguyên cách mạng 4.0, các doanh nghiệp nhà nước phải đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh.

Trong tình hình thế giới hiện nay, khoa học – công nghệ phát triển nhanh chóng, chiến tranh thương mại diễn ra khắp nơi ở các quốc gia, nền kinh tế khu vực, toàn cầu, tình hình thế giới có nhiều biến động. Các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng nền kinh tế xanh, sạch, kinh tế tuần hoàn. Các doanh nghiệp nhà nước đầu tàu của nền kinh tế phải ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, đầu tư vào các ngành mới nổi, như: trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn, năng lượng mới… để từ đó, bắt kịp với xu hướng của thế giới, tạo sự lan tỏa, hình thành hệ sinh thái cho mình và tạo điền kiện cho các loại hình doanh nghiệp khác phát triển.

Trong bối cảnh cách mạng 4.0, công nghệ mới, như: AI, IoT, Blockchain, Big Data… đang phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong việc đầu tư, nghiên cứu, phát triển nhằm mục tiêu hiện đại hóa quản lý, tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế và mở rộng phạm vi phục vụ; hình thành các chuỗi giá trị, thúc đẩy hợp tác, liên kết đủ sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.

Bốn là, các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu, nòng cốt trong việc thực hiện an sinh xã hội, đầu tư cho nông thôn, miền núi, biên giới hải đảo

Lãnh đạo các doanh nghiệp phải coi đây là thực hiện nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho để tạo ra đặc trưng của nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, thể hiện tính ưu việt của nền kinh tế, của chế độ ta. Vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước cần làm tốt an sinh xã hội ngay trong doanh nghiệp và địa bàn cũng như với cả xã hội, tạo sự đoàn kết, gắn bó tin tưởng của Nhân dân, khách hàng vào các doanh nghiệp nhà nước; từ đó, giúp doanh nghiệp và cả nền kinh tế phát triển. Các doanh nghiệp nhà nước phải tăng cường đầu tư cho nông thôn, miền núi, biên giới hải đảo… để tạo điền kiện cho kinh tế những nơi này phát triển góp phần ổn định về chính trị, văn hóa, kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo..

4. Kết luận

Trong kỷ nguyên mới của dân tộc, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế là rất quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Điều này cần phải được nhận thức rõ và có các giải pháp đồng bộ để các doanh nghiệp nhà nước làm tốt vai trò của mình, từ đó tạo ra cơ sở, nền tảng cho một thời kỳ phát triển mới, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng XHCN.

Chú thích
1.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr.103; 225.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 101.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 96.
4. Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 01/11/2024.
5. Thủ tướng yêu cầu doanh nghiệp nhà nước phải tiên phong trong tăng tốc, bứt phá tăng trưởng. https://dantri.com.vn/kinh-doanh/thu-tuong-yeu-cau-doanh-nghiep-nha-nuoc-tang-toc-but-pha-tang-truong-20250323104530458. htm, ngày 23/3/2025.
6, 7. Thủ tướng làm việc với doanh nghiệp nhà nước về chuyển đổi số, thúc đẩy tăng trưởng. https://baochinhphu.vn, ngày 25/3/2025
8, 9, 10. Bộ Công thương đề xuất cơ chế để triển khai Điều chỉnh Quy hoạch điện VII. https://vneconomy.vn, ngày 22/3/2025.
11. Nhu cầu vốn cho hạ tầng đường bộ lên tới 900.000 tỷ đồng vào năm 2030. https://vienktxh.hanoi.gov.vn, ngày 24/4/2025.