Dấu ấn chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh Lâm Đồng

ThS. Nguyễn Khắc Nam Sơn
Trường Chính trị tỉnh Bình Thuận

(Quanlynhanuoc.vn) – Tại vùng đất cao nguyên Lâm Đồng, Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 không chỉ mở ra cơ hội thoát nghèo mà còn tạo nên bước chuyển mình mạnh mẽ về hạ tầng, sinh kế và chất lượng cuộc sống cho đồng bào dân tộc thiểu số. Với chiến lược đầu tư trọng điểm và linh hoạt trong triển khai, chương trình đang từng bước hiện thực hóa khát vọng phát triển bền vững cho những vùng đất còn nhiều khó khăn.

Từ khoá: Mục tiêu quốc gia, dân tộc thiểu số, miền núi, phát triển, tỉnh Lâm Đồng.

1. Đặt vấn đề

Lâm Đồng thuộc vùng Tây Nguyên hùng vĩ, nổi bật với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và sự đa dạng văn hóa của các dân tộc thiểu số. Nơi đây ẩn chứa tiềm năng phát triển to lớn về nông nghiệp, du lịch và văn hóa. Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh vẫn đối mặt với nhiều thách thức về kinh tế – xã hội, bao gồm hạ tầng còn hạn chế, đời sống sản xuất bấp bênh và khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội còn chưa đồng đều.

Trước thực trạng đó, Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 (viết tắt là Chương trình 1719), đặc biệt là giai đoạn I từ năm 2021 đến hết năm 2025, đã được triển khai như một giải pháp chiến lược. Chương trình này được kỳ vọng sẽ mang đến một luồng sinh khí mới, hiện thực hóa khát vọng đổi thay, nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng ngàn hộ dân tại các vùng khó khăn. Bài viết đi sâu vào thực tiễn triển khai Chương trình 1719 tại Lâm Đồng, phân tích những thành tựu nổi bật đã đạt được, những “nút thắt” còn tồn tại cần tháo gỡ, từ đó phác họa bức tranh chuyển mình đầy ấn tượng của vùng đất cao nguyên này.

2. Đối tượng thụ hưởng và dự án thành phần

Chương trình 1719 là một trong những chương trình trọng điểm quốc gia, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 với mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền và nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số. Giai đoạn I của Chương trình được thực hiện từ năm 2021 đến hết năm 2025.

Đối tượng thụ hưởng của Chương trình rất đa dạng, bao gồm các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; các hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; các hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; và các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, các tổ chức kinh tế hoạt động tại các địa bàn khó khăn.Để đảm bảo nguồn lực thực hiện, Chương trình huy động đa dạng các nguồn vốn, bao gồm ngân sách nhà nước, nguồn vốn ODA, và các nguồn đóng góp hợp pháp khác từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước.

Chương trình 1719 được cấu trúc bởi 10 dự án thành phần, bao trùm nhiều lĩnh vực thiết yếu hướng tới sự phát triển toàn diện và bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Các dự án này được thiết kế để giải quyết các vấn đề từ cơ bản như nhà ở, đất sản xuất đến các vấn đề phức tạp hơn như phát triển kinh tế theo chuỗi giá trị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và bảo tồn văn hóa.

Ngày 14/5/2025, Chính phủ ban hành Quyết định số 920/QĐ-TTg điều chỉnh một số nội dung quan trọng của Chương trình. Sự điều chỉnh này cho thấy một sự thích nghi và rút kinh nghiệm từ thực tiễn triển khai trên cả nước. Cụ thể, đối tượng thụ hưởng đã được mở rộng, bổ sung các đơn vị sự nghiệp công lập, như: trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, trung tâm y tế huyện, bệnh viện tuyến huyện, cùng với các di tích và dự án bảo tồn văn hóa gắn với du lịch, ưu tiên các địa bàn đặc biệt khó khăn. Việc này phản ánh nhận thức rằng phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở kinh tế thuần túy mà còn phải bao gồm việc củng cố hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục) và bảo tồn giá trị văn hóa, vốn là những yếu tố cốt lõi cho sự phát triển toàn diện của cộng đồng.

Bên cạnh đó, một số dự án thành phần cũng được điều chỉnh chi tiết hơn, ví dụ như Dự án 3 tập trung vào phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp bền vững gắn với bảo vệ rừng và hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, nhấn mạnh tính hiệu quả và bền vững trong sản xuất. Nguyên tắc thực hiện Chương trình sau điều chỉnh cũng được làm rõ, đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền, đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát và đặc biệt là nguyên tắc “Địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Điều này thể hiện nỗ lực trao quyền và tăng tính linh hoạt cho địa phương, nhằm khắc phục những vướng mắc phát sinh từ sự cứng nhắc của chính sách ban đầu. Sự thay đổi này cho thấy, chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số đang chuyển dịch từ cách tiếp cận tập trung sang một mô hình linh hoạt hơn, cho phép các địa phương tùy chỉnh và tối ưu hóa nguồn lực dựa trên điều kiện thực tế của mình, một dấu hiệu tích cực cho hiệu quả lâu dài của Chương trình.

3. Thực trạng thực hiện Chương trình 1719 tại tỉnh Lâm Đồng

Sau gần 4 năm triển khai Chương trình 1719 (giai đoạn 2021 – 2025), tỉnh Lâm Đồng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Tổng nguồn vốn đầu tư cho Chương trình tại Lâm Đồng lên đến 1.734 tỷ đồng. Mức đầu tư này thể hiện cam kết mạnh mẽ của tỉnh trong việc thực hiện Chương trình. Tỉnh đã tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực trọng tâm, như hạ tầng, giáo dục, y tế, văn hóa thay vì dàn trải như trước đây, cho thấy một chiến lược đầu tư có trọng điểm, hướng tới tạo ra những thay đổi nền tảng và bền vững. Điều này phù hợp với nguyên tắc “tập trung vào trọng tâm, trọng điểm và không dàn trải” mà các cấp chính quyền đã quán triệt.

Thứ nhất, hạ tầng thay đổi diện mạo.

Một trong những điểm nhấn đáng chú ý trong thực hiện Chương trình 1719 ở Lâm Đồng là sự đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống giao thông. Đến nay, đã có trên 500 công trình đường giao thông tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được xây dựng mới, sửa chữa và nâng cấp. Việc cải thiện giao thông không chỉ đơn thuần là giúp việc đi lại dễ dàng hơn mà còn có tác động lan tỏa đến toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội. Đường sá tốt hơn giúp nông sản dễ dàng tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và thông tin, từ đó phá vỡ thế cô lập cho các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là một minh chứng rõ ràng cho mối quan hệ nhân quả: đầu tư hạ tầng giao thông tạo ra sự rút ngắn khoảng cách địa lý và thuận lợi trong giao thương, kéo theo sự thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao đời sống.

Bên cạnh giao thông, tỉnh cũng đã đầu tư xây dựng và nâng cấp các công trình phúc lợi xã hội như trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Thứ hai, an cư lạc nghiệp, vững bước tương lai.

Việc giải quyết vấn đề nhà ở và nước sinh hoạt là nền tảng cho sự ổn định cuộc sống của đồng bào. Tại huyện Lâm Hà, Ngân hàng Chính sách xã hội huyện đã hỗ trợ cho 26 hộ khó khăn vay hơn 1 tỷ đồng để làm nhà. Huyện cũng đang hoàn thiện một số công trình nước sinh hoạt tập trung, bảo đảm nguồn nước sạch cho người dân. Tương tự, tại huyện Di Linh, địa phương đang tích cực triển khai Dự án 1 hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo là người dân tộc thiểu số từ nguồn vốn Chương trình 1719 tại 5 xã: Đinh Trang Thượng, Gung Ré, Đinh Trang Hòa, Bảo Thuận và Tân Nghĩa.

Đặc biệt, huyện Di Linh đã phê duyệt một điểm định canh, định cư tập trung tại khu dân cư R’Hàng Plồi, thôn Hàng Làng, xã Gung Ré, với tổng diện tích 20ha, dự kiến phục vụ 87 hộ với 435 nhân khẩu. Mô hình này không chỉ giải quyết vấn đề nhà ở mà còn hướng đến một giải pháp toàn diện hơn về sinh kế và cộng đồng, giúp chấm dứt tình trạng du canh, du cư, vốn là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững của đồng bào dân tộc thiểu số. Những nỗ lực này giúp giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho bà con phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống. Khi người dân có nhà ở ổn định, đất sản xuất và nước sinh hoạt bảo đảm, họ mới có thể yên tâm đầu tư vào sản xuất, giáo dục con cái và tham gia các hoạt động cộng đồng, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Thứ ba, kinh tế khởi sắc, thu nhập nâng cao.

Chương trình 1719 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp. Các địa phương đã tích cực tư vấn, hỗ trợ người dân chuyển đổi mô hình canh tác, sản xuất để nâng cao chất lượng và hiệu quả. Việc hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm cho người nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể.

Nhiều mô hình kinh tế hiệu quả đã được triển khai và nhân rộng. Đoàn Kinh tế – Quốc phòng Lâm Đồng đã kiểm tra và đánh giá cao các mô hình tiêu biểu gắn với dân bản tại các huyện Đam Rông, Lâm Hà và Di Linh, như: Mô hình trồng dâu nuôi tằm; nuôi dê lai Boer, bò cao sản; vườn cây cà phê. Đơn vị này đã tổ chức lựa chọn đơn vị cung cấp cây giống, con giống, vật tư; thực hiện 3 mô hình chăn nuôi, trồng trọt cho 389 hộ đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ tiếp cận với phương thức sản xuất hiện đại hơn.

Câu chuyện của gia đình chị Ka M’Rao ở xã Đạ M’rông là một minh chứng sống động. Trước đây, gia đình chị chỉ trông chờ vào cây bắp, lúa nước, nhưng sau khi được hỗ trợ nông cụ và tham gia tập huấn kỹ thuật, chị đã mạnh dạn chuyển đổi sang mô hình trồng dâu nuôi tằm. Mỗi kén tằm đạt tiêu chuẩn được thu mua với giá 180.000 – 200.000 đồng/kg, mang lại nguồn thu nhập ổn định và cải thiện rõ rệt cuộc sống gia đình.Sự thành công của các mô hình này cho thấy rằng việc cung cấp kiến thức, kỹ thuật và vật tư đầu vào kết hợp với sự chuyển đổi tư duy sản xuất của người dân là chìa khóa để nâng cao năng suất và thu nhập, từ đó góp phần giảm nghèo bền vững. Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu và đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhờ triển khai đồng bộ các chính sách và Chương trình 1719, nhiều hộ dân đã đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp hàng hóa đã hình thành và phát triển mạnh tại các huyện: Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương, Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lâm, Đạ Huoai với các sản phẩm đa dạng như rau, hoa, cà phê, chè, sầu riêng, cây ăn quả, dâu tằm cùng với chăn nuôi gia súc (bò sữa, bò thịt, heo), gia cầm, cá. Kết quả là sản lượng, chất lượng, giá trị các sản phẩm nông nghiệp tăng lên hằng năm, thu nhập của người dân tăng rõ rệt, nhiều hộ đã thoát nghèo và ổn định cuộc sống.

Thứ tư, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Chương trình không chỉ tập trung vào phát triển kinh tế mà còn chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện cho đồng bào dân tộc thiểu số. Huyện Đam Rông đặc biệt quan tâm dạy nghề cho lao động người dân tộc thiểu số để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn liền với sản xuất và tạo việc làm, giúp người dân có kỹ năng bền vững.

Trong lĩnh vực y tế, tại huyện Lâm Hà, Dự án 7 của Chương trình 1719 đã triển khai các buổi nói chuyện chuyên đề về sức khỏe sinh sản vị thành niên cho hơn 3.400 học sinh tại các trường THCS và THPT vùng dân tộc thiểu số. Đây là một hoạt động thiết thực, không chỉ nâng cao kiến thức, kỹ năng sống mà còn góp phần nâng cao chất lượng dân số và phòng tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Việc Chương trình 1719 không chỉ tập trung vào kinh tế mà còn vào giáo dục nghề nghiệp và đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên cho thấy một cách tiếp cận phát triển toàn diện. Sức khỏe sinh sản vị thành niên là một vấn đề nhạy cảm nhưng cực kỳ quan trọng đối với tương lai của cộng đồng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của thế hệ mai sau. Điều này thể hiện sự nhận thức rằng phát triển bền vững không chỉ là về tài chính hay hạ tầng, mà còn là về “vốn con người” và “chất lượng cuộc sống”. Đầu tư vào giáo dục và y tế, đặc biệt là các vấn đề nhạy cảm như sức khỏe sinh sản, là đầu tư cho tương lai, giúp các cộng đồng dân tộc thiểu số không chỉ thoát nghèo mà còn phát triển một cách toàn diện và bền vững.

3. Những “nút thắt” cần tháo gỡ

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, quá trình triển khai Chương trình 1719 tại Lâm Đồng vẫn còn đối mặt với những “nút thắt” cần được tháo gỡ, chủ yếu xuất phát từ cơ chế, chính sách và những khó khăn trong thực tiễn.

(1) Một trong những thách thức lớn nhất là sự bất cập trong tiêu chí phân định vùng. Tiêu chí hiện tại chưa hợp lý và còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế, dẫn đến việc nhiều xã, thôn, bản trên địa bàn tỉnh (và cả nước) không còn thuộc diện đặc biệt khó khăn, trong khi điều kiện kinh tế – xã hội của họ vẫn còn đặc biệt khó khăn. Điều này tạo ra một nghịch lý: những vùng thực sự cần hỗ trợ lại có thể bị “rớt” khỏi danh sách thụ hưởng chính sách, trong khi những vùng đã có cải thiện lại tiếp tục nhận hỗ trợ. Tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định đối tượng thụ hưởng và phân bổ nguồn lực một cách tối ưu, làm chậm quá trình giảm nghèo bền vững ở những nơi cần nhất.

Thêm vào đó, mức hỗ trợ cho một số dự án và nội dung của chương trình còn thấp, không khả thi khi áp dụng vào thực tế, đặc biệt là hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất và phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững. Cùng với đó, các văn bản hướng dẫn của Trung ương và các ngành liên quan còn chậm và thiếu, gây lúng túng cho cấp cơ sở trong quá trình triển khai. Đây là những rào cản hành chính và tài chính trực tiếp, làm giảm hiệu quả thực thi chính sách ở cấp địa phương. Những thách thức này cho thấy sự cần thiết của một cơ chế chính sách linh hoạt, thường xuyên được rà soát và điều chỉnh dựa trên thực tiễn. Nếu không giải quyết dứt điểm vấn đề tiêu chí và quy trình, Chương trình có thể không phát huy tối đa hiệu quả, thậm chí tạo ra sự bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực giữa các địa phương và cộng đồng.

(2) Khó khăn trong triển khai thực tiễn. Thực tiễn triển khai tại các địa phương, điển hình như huyện Đam Rông, đã bộc lộ những vướng mắc cụ thể. Trong lĩnh vực đào tạo nghề, việc tuyển sinh học nghề gặp nhiều trở ngại, số lượng học viên giảm. Một số ngành nghề mà các xã đăng ký theo nhu cầu lại không có người đăng ký theo học, và thiếu định mức nghề theo quy định của tỉnh gây khó khăn cho việc lập dự toán chi phí các lớp học. Về ứng dụng công nghệ y tế, việc triển khai ứng dụng khám, chữa bệnh từ xa còn chậm. Đa số thiết bị tin học tại các trạm y tế xã có cấu hình thấp, đã hết hạn sử dụng, gây khó khăn cho việc lưu trữ và cập nhật thông tin, chưa đáp ứng được nhu cầu.

Đặc biệt, trong nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất với mức đối ứng (Nhà nước hỗ trợ 70%, Nhân dân đối ứng 30%), nhiều hộ nghèo, cận nghèo là người già cả, neo đơn hoặc không đủ điều kiện (diện tích, kinh phí, nhân lực) để thực hiện. Điều này dẫn đến việc bà con không đăng ký thực hiện sau khi tổ chức họp dân, khiến chính sách khó đi vào cuộc sống. Các khó khăn cụ thể tại Đam Rông là những ví dụ điển hình cho thấy khoảng cách giữa chính sách trên giấy và thực tiễn triển khai. Vấn đề vốn đối ứng cho hộ nghèo là khó khăn, vì nó trực tiếp cản trở những đối tượng dễ bị tổn thương nhất tiếp cận được sự hỗ trợ. Điều này cho thấy chính sách cần được thiết kế với sự hiểu biết sâu sắc về năng lực và điều kiện thực tế của các hộ gia đình nghèo. Tương tự, việc thiếu cơ sở vật chất và hướng dẫn trong đào tạo nghề và y tế từ xa làm suy yếu mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe. Những vướng mắc này chỉ ra rằng, việc “phân cấp, ủy quyền” cần đi kèm với việc đảm bảo năng lực thực thi và nguồn lực phù hợp ở cấp cơ sở. Nếu không, các chính sách tốt đẹp có thể bị đình trệ hoặc không đạt được hiệu quả mong muốn do những rào cản thực tế.

4. Đề xuất và giải pháp

Để tháo gỡ những “nút thắt” này, Lâm Đồng cùng nhiều địa phương khác đã đưa ra các kiến nghị quan trọng. Các tỉnh đề xuất Trung ương cần xây dựng lại tiêu chí phân định vùng để làm cơ sở hoạch định chính sách dân tộc nói chung và Chương trình 1719 nói riêng, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và không bỏ sót các đối tượng cần hỗ trợ nhất.Đồng thời, kiến nghị Trung ương tăng cường tính linh hoạt và trao quyền chủ động cho địa phương trong việc xây dựng và triển khai chương trình, giao mục tiêu, chỉ tiêu, kinh phí theo hình thức khoán gọn, giúp địa phương chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn lực.

Ngoài ra, các địa phương cũng đề xuất lồng ghép, tích hợp một số nội dung trùng lặp giữa các chương trình mục tiêu quốc gia hiện tại (như đầu tư hạ tầng, sinh kế, giáo dục, y tế, nhà ở) để giảm chồng chéo và sử dụng hiệu quả nguồn lực. Việc này là một giải pháp thông minh để tối ưu hóa nguồn lực và tránh lãng phí. Kiến nghị Trung ương cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn; quy định thống nhất đối tượng được thụ hưởng chính sách các chương trình mục tiêu quốc gia; có quy định cụ thể về nội dung, mức hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương và cho phép địa phương vận dụng, tận dụng nguồn nguyên – vật liệu tại địa phương cũng là những đề xuất thiết thực, phản ứng trước những khó khăn về thủ tục và tiến độ.Những đề xuất này phản ánh một xu hướng chung trong quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia: cần một cách tiếp cận linh hoạt, phi tập trung hơn, nơi các địa phương có thể chủ động điều chỉnh và thích nghi với điều kiện đặc thù của mình, đồng thời giảm bớt gánh nặng hành chính và tăng cường hiệu quả sử dụng vốn.

Chương trình 1719 giai đoạn 2026 – 2030 được định hướng phải tiếp tục giải quyết dứt điểm những vấn đề căn cơ nhất, khó khăn nhất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Điều này cho thấy sự nhận thức rõ ràng về những thách thức còn tồn đọng và cam kết tiếp tục đầu tư một cách kiên trì. Mục tiêu “giải quyết dứt điểm” cho thấy rằng, giai đoạn 2021 – 2025 là bước khởi đầu quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều thách thức sâu sắc cần được giải quyết triệt để, và các vấn đề của vùng dân tộc thiểu số không thể giải quyết trong một sớm một chiều mà cần một lộ trình dài hơi.

Các giải pháp được đề xuất cho giai đoạn này bao gồm rà soát kỹ đối tượng, nội dung Chương trình, đơn giản hóa quy trình thủ tục đầu tư đối với các dự án không phức tạp và lựa chọn nội dung, tiêu chí dự án phù hợp với từng địa phương.Định hướng cho giai đoạn tiếp theo phản ánh sự chuyển dịch từ việc “đầu tư” sang “giải quyết dứt điểm”, đòi hỏi một cách tiếp cận chiến lược hơn, tập trung vào hiệu quả và tính bền vững.

Trong giai đoạn mới, các địa phương cần quan tâm, rà soát, đánh giá, sắp xếp, tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc hợp lý, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả để nâng cao năng lực thực thi chính sách. Lâm Đồng sẽ tiếp tục tập trung vào việc phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị để nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, hướng tới tạo ra sự phát triển nội tại, tự lực cho các cộng đồng, thay vì chỉ dựa vào sự hỗ trợ từ bên ngoài.

5. Kết luận

Chương trình 1719 đã thực sự mang lại những chuyển biến tích cực, rõ rệt cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Lâm Đồng. Từ hạ tầng giao thông đồng bộ giúp rút ngắn khoảng cách địa lý, những ngôi nhà kiên cố mang lại sự an cư, nguồn nước sạch bảo đảm sức khỏe, đến các mô hình kinh tế hiệu quả nâng cao thu nhập và sự cải thiện chất lượng cuộc sống toàn diện, diện mạo vùng cao nguyên Lâm Đồng đang ngày càng khởi sắc. Những thành công này đến từ sự đầu tư đúng trọng tâm, sự linh hoạt trong triển khai, và đặc biệt là sự đồng lòng của cấp ủy, chính quyền và người dân.

Mặc dù còn những “nút thắt” về cơ chế, chính sách và khó khăn trong thực tiễn triển khai, song những đề xuất và kiến nghị từ Lâm Đồng cho thấy tinh thần chủ động, sáng tạo của địa phương trong việc tháo gỡ vướng mắc, hướng tới mục tiêu chung. Hành trình phát triển vùng DTTS và miền núi Lâm Đồng vẫn còn dài và nhiều thách thức. Tuy nhiên, với những dấu ấn đã đạt được từ Chương trình 1719 và định hướng rõ ràng, kiên trì cho giai đoạn tiếp theo, Lâm Đồng đang vững bước trên con đường xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bền vững cho đồng bào các dân tộc trên cao nguyên.

Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ 92021). Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025. https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=204285, ngày 14/10/2021.
2. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. https://bdt.kiengiang.gov.vn/trang/TinTuc/7/1006/Thuc-hien-Chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-giai-doan-2021-2030–giai-doan-I–tu-nam-2021-den-nam-2025-tren-dia-ban-tinh-Kien-Giang. html, ngày 07/01/2022.
3. Điều chỉnh một số nội dung Chương trình phát triển KTXH vùng dân tộc thiểu số và miền núi. https://baochinhphu.vn/dieu-chinh-mot-so-noi-dung-chuong-trinh-phat-trien-ktxh-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-102250514223103175.htm, ngày 14/5/2025.
4. Diện mạo mới trên vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng. https://baodantoc.vn/dien-mao-moi-tren-vung-dong-bao-dtts-tinh-lam-dong-1743676594319.htm, ngày 03/4/2025.
5. Nhiều mô hình thiết thực giúp đồng bào dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng thoát nghèo. https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/tin-tuc/nhieu-mo-hinh-thiet-thuc-giup-dong-bao-dan-toc-thieu-so-tai-lam-dong-thoat-ngheo-788947.
6. Lâm Đồng triển khai nội dung Dự án 7, Chương trình mục tiêu quốc gia 1719. https://suckhoedoisong.vn/lam-dong-trien-khai-noi-dung-du-an-7-chuong-trinh-mtqg-1719-169231102131232148.htm.
7. Xây dựng lại tiêu chí phân định vùng để thực hiện hiệu quả chính hiệu quả chính sách dân tộc. https://daibieunhandan.vn/xay-dung-lai-tieu-chi-phan-dinh-vung-de-thuc-hien-hieu-qua-chinh-sach-dan-toc-10375278.html.
8. Đam Rông: Những khó khăn trong triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. https://baolamdong.vn/xa-hoi/202403/dam-rong-nhung-kho-khan-trong-trien-khai-thuc-hien-cac-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-9143034.
9. Chương trình mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn 2026-2030 phải tiếp tục giải quyết dứt điểm những vấn đề căn cơ nhất, khó khăn nhất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. http://www.cema.gov.vn/uy-ban-dan-toc-voi-dia-phuong/chuong-trinh-mtqg-1719-giai-doan-2026-2030-phai-tiep-tuc-giai-quyet-dut-diem-nhung-van-de-can-co-nhat-kho-khan-nhat-o-vung-dong-bao-dtts-va-mien-nui.htm.
10. Lâm Đồng: Tập trung triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia 1719. https://baodantoc.vn/lam-dong-tap-trung-trien-khai-thuc-hien-chuong-trinh-mtqg-1719.htm.