ThS. Phạm Thị Thanh Tâm
Công đoàn Dệt may Việt Nam
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Tiếp cận thông tin là nhu cầu tất yếu của con người nói chung, người lao động nói riêng đã được luật hoá. Bài viết khái quát về năng lực tiếp cận thông tin và làm rõ thực trạng năng lực này của người lao động ngành Dệt may Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực tiếp cận thông tin cho người lao động ở Việt Nam trong tình hình mới1.
Từ khoá: Người lao động, nâng cao năng lực, tiếp cận thông tin, ngành dệt may, người lao động.
1. Đặt vấn đề
Quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948. Ở nước ta, lần đầu tiên “quyền được thông tin” đã ghi nhận là quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 và phát triển thành “quyền tiếp cận thông tin” (Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11, ngày 06/4/2016 thông qua Luật Tiếp cận thông tin). Trong bối cảnh bùng nổ thông tin đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc nâng cao năng lực tiếp cận thông tin sẽ giúp người lao động thích nghi với xu hướng mới, đổi mới kỹ năng và phương pháp làm việc. Nâng cao năng lực tiếp cận thông tin cho người lao động là yêu cầu cấp thiết vì bản thân của người lao động và cũng vì sự phát triển xã hội.
2. Năng lực tiếp cận thông tin của người lao động
Năng lực người lao động là khả năng nhận diện nhu cầu thông tin, xác định nguồn tin phù hợp, thực hiện quá trình tìm kiếm, phân tích, đánh giá, sử dụng và chia sẻ thông tin một cách hiệu quả, có trách nhiệm và phù hợp với mục tiêu nhận thức, hành động hoặc phát triển cá nhân – xã hội trong các bối cảnh cụ thể.
Dệt may Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia và tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Là ngành xuất khẩu chủ lực, dệt may không chỉ khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế mà còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ khác. Với mạng lưới doanh nghiệp rộng lớn, từ sản xuất sợi, dệt, nhuộm hoàn tất đến may mặc, ngành Dệt may Việt Nam hiện đã xuất khẩu sản phẩm sang hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Lao động ngành Dệt may Việt Nam dồi dào với hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 25% lực lượng lao động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
Điều 2, Bộ luật Lao động năm 2019 có giải thích: “người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người người sử dụng lao động”. Người lao động ngành Dệt may Việt Nam là những cá nhân tham gia quan hệ lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, thiết kế, phân phối sản phẩm dệt, sợi, may mặc và phụ trợ ngành may tại các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế thuộc ngành Dệt may Việt Nam. Họ làm việc theo hợp đồng lao động hoặc các hình thức lao động hợp pháp khác, tại khu công nghiệp, nhà máy, xưởng sản xuất, trung tâm phân phối, hoặc trong các chuỗi cung ứng toàn cầu có liên kết với doanh nghiệp Việt Nam. Dưới góc độ pháp lý, người lao động ngành Dệt may Việt Nam là đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Bộ luật Lao động hiện hành, các quy định pháp luật chuyên ngành và các thỏa ước lao động tập thể trong phạm vi ngành.
Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam là quá trình chủ động, có định hướng, mang tính hệ thống nhằm nâng cao toàn diện khả năng của người lao động trong việc nhận diện, tiếp cận, đánh giá, xử lý, chọn lọc và sử dụng thông tin một cách hiệu quả và có trách nhiệm trong môi trường làm việc và đời sống xã hội.
Năng lực tiếp cận thông tin của người lao động có được bảo đảm hay không còn phụ thuộc vào các điều kiện nhất định như việc bảo đảm nguồn thông tin, nội dung thông tin, nhu cầu và động lực tiếp cận thông tin của người lao động, kênh thông tin đa dạng, phù hợp với các đối tượng người lao động.
2. Thực trạng việc tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may
Nghiên cứu tiến hành khảo sát 600 người lao động tại các địa phương nơi có cơ sở, nhà máy của Tập đoàn Dệt may Việt Nam có tổ chức công đoàn cơ sở, gồm: Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Bắc Ninh, Huế, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh2.
Thứ nhất, thực trạng nhu cầu và mục đích tiếp cận thông tin của người lao động
Khảo sát về nhu cầu tìm kiếm thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam cho thấy, thông tin được người lao động tìm kiếm nhiều nhất là về sức khoẻ, y tế (53,6%); phim ảnh, ca nhạc, giải trí (53,2); về các vấn đề xã hội (51,4%); về văn hoá, nghệ thuật, thể thao (42,5%). Tiếp đến là thông tin về môi trường, thời tiết; về tình hình chính trị trong nước; về kinh tế, tài chính; về lao động, việc làm. Thông tin về hoạt động của công đoàn thuộc nhóm có tỷ lệ tiếp cận thứ 3 và tỉ lệ tiếp cận thông tin trái chiều, đình công, ngừng việc tập thể là thấp nhất.
Nhu cầu tiếp cận thông tin của người lao động có sự khác biệt theo lứa tuổi. Cụ thể: Phân theo độ tuổi thì thông tin về tình hình thời sự quốc tế; về hoạt động doanh nghiệp; về hoạt động của công đoàn; về chăm sóc, nuôi dưỡng con cái; về thông tin trái chiều thì người lao động từ 35 tuổi trở lên tìm kiếm, tra cứu nhiều hơn người lao động trẻ. Các thông tin còn lại thì người lao động trẻ lại tìm kiếm, tra cứu nhiều hơn người lao động lớn tuổi. Phân theo giới tính thì nam người lao động có xu hướng tìm kiếm, tra cứu thông tin nhiều hơn lao động nữ; đồng thời lao động nữ quan tâm nhiều đến thông tin về gia đình, chăm sóc, nuôi dưỡng con cái.
Phân theo thu nhập lại có sự khác biệt, người lao độngcó thu nhập càng cao thì có nhu cầu tìm kiếm thông tin càng lớn. Người lao động có thu nhập thấp nhu cầu tìm kiếm thông tin càng ít, thậm chí không có nhu cầu tiếp cận thông tin về kinh tế, tài chính; hoạt động của công đoàn; sức khoẻ, y tế… Phân theo trình độ thì người lao động có trình độ cao đẳng – đại học có nhu cầu tìm kiếm, tra cứu thông tin nhiều hơn người lao động có trình độ khác. Điểm cần quan tâm là thông tin về đình công, ngừng việc tập thể, người lao động có trình độ tiểu học và cao đẳng trở lên có tỷ lệ tìm kiếm, tra cứu thông tin thấp (2,5% – 7,7%); trong khi đó người lao động có trình độ trung học phổ thông có tỷ lệ tìm kiếm, tra cứu cao hơn
Đối với người lao động nói chung, người lao động ngành Dệt may Việt Nam nói riêng thì những thông tin căn bản nhất về đường lối, chủ trương, chính sách, đặc biệt là chính sách đối với người lao động có vai trò vô cùng quan trọng trong việc ra các quyết định trong công việc và cuộc sống. Tiếp theo là những thông tin mang tính chỉ dẫn, giáo dục góp phần tăng sự tương tác của người lao động trong việc tham gia vào các tiến trình xã hội đặc biệt là các hoạt động của công đoàn sẽ cho họ sự tự tin và niềm hứng khởi để họ làm việc.
Mục đích tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam rất đa dạng, xuất phát từ nhu cầu công việc, mong muốn phát triển bản thân và các quyền lợi liên quan. Kết quả khảo sát cho thấy, mục đích được người người lao động ngành Dệt may Việt Nam lựa chọn nhiều nhất là “để phục vụ công việc và cuộc sống” (72,5%). Tiếp theo là “để tìm hiểu thông tin” (71,7%), “để nâng cao hiểu biết” (66,4%), “để cập nhật thông tin mới” (66,4%), “để thụ hưởng các chủ trương, chính sách” (46,2%). Bên cạnh đó, sau khi tiếp cận thông tin thì người lao động ngành Dệt may Việt Nam cũng có mục đích là “để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm” (41,1%), chủ yếu cho những người trong gia đình, bạn bè thân thiết để giúp cho những người đó có thêm được các thông tin cần thiết. Với tỷ lệ từ 12,5% với mục đích giải trí thì đây chủ yếu là nhóm đối tượng không có nhu cầu sử dụng thông tin. Các thông tin chủ yếu là vô tình tiếp cận chứ không hề có chủ đích, trước khi được tiếp cận không biết mình sẽ được tiếp cận với những thông tin gì.
Người lao động ngành Dệt may Việt Nam tiếp cận thông tin với nhiều mục đích khác nhau, tùy thuộc vào nhu cầu và hoàn cảnh của từng người. Đây là một dấu hiệu tốt chứng tỏ họ đã có nhận thức tốt về việc tiếp cận thông tin, điều này tạo điều kiện thúc đẩy họ thực hiện tốt hơn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Họ có thể tìm kiếm thông tin bất cứ khi nào cần thiết nhưng thường xuyên nhất là khi có nhu cầu và trực tiếp liên quan đến bản thân (70,8%), khi thấy các phương tiện thông tin nhắc đến nhiều (58,7%) và khi vì doanh nghiệp/công đoàn chủ động thông tin cho họ,
Thứ hai, thực trạng nhu cầu cung cấp thông tin từ các chủ thể của người lao động.
Trong phạm vi đề tài, nhóm nghiên cứu khoanh vùng nội dung thông tin được cung cấp bởi 3 chủ thể, gồm: doanh nghiệp, công đoàn, chính quyền địa phương – nơi người lao động ngành Dệt may Việt Nam sinh sống với những thông tin về doanh nghiệp; về tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; phổ biến kiến thức phục vụ nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, tay nghề; giao kết hợp đồng lao động.
Người lao động ngành Dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp cận thông tin do doanh nghiệp cung cấp nhưng mức độ không giống nhau. Kết quả tìm hiểu về chất lượng thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho người lao động, cho thấy, nội dung thông tin do doanh nghiệp cung cấp, 57% người lao động ngành Dệt may Việt Nam tham gia khảo sát đánh giá tốt đối với thông tin khích lệ, cổ vũ người lao động tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, tiếp đến là khích lệ, cổ vũ người lao động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa ngành (51,3%); 47,0% là thể hiện thể hiện các đặc điểm văn hóa của người lao động ngành dệt may; 45,7% là sự xuất hiện các hình ảnh gần gũi với người lao động.
Kết quả khảo sát cho thấy, có 93,9% số người được hỏi trả lời có tiếp cận thông tin về hoạt động của công đoàn cơ sở nơi làm việc và chế độ, chính sách phúc lợi của công đoàn cơ sơ; 93,6% số người được hỏi trả lời được thông tin về một số hoạt động lớn của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Mặc dù tỷ lệ đánh giá chất lượng thông tin do doanh nghiệp và công đoàn cung cấp không giống nhau nhưng có sự thống nhất trong mức độ ưu tiên, như: khích lệ, cổ vũ người lao động tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (63,3%); cổ vũ người lao động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa ngành (60,6%); thể hiện các đặc điểm văn hóa của người lao động ngành dệt may (55,6%); sự xuất hiện các hình ảnh gần gũi với người lao động (52,6%). Kết quả khảo sát cũng cho thấy, người lao động ngành Dệt may Việt Nam tiếp cận thông tin do chính quyền địa phương cung cấp chiếm tỷ lệ thấp hơn so với các chủ thể thông tin khác (83,7%). Nguyên nhân có thể là phần lớn thời gian người lao động ngành Dệt may Việt Nam làm việc trong nhà máy; sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc lại trở về với bộn bề lo toan với cơm áo gạo tiền, chăm sóc con cái, giải quyết các mối quan hệ trong gia đình, xã hội, nên chưa quan tâm đến thông tin do chính quyền địa phương cung cấp.
Thứ ba, thực trạng hình thức tiếp cận thông tin của người lao động.
Kết quả khảo sát 600 người lao động cho thấy, kênh được tiếp cận thông tin rất thường xuyên (hằng ngày) là từ internet và mạng xã hội. Kênh bạn bè, đồng nghiệp được người lao động ngành Dệt may Việt Nam rất thường xuyên khi tiếp cận thông tin (33,6%). Thông qua mạng lưới xã hội, những liên kết xã hội giữa các thành viên trong mối quan hệ gia đình, bạn bè, người thân các thông tin liên quan về các dịch vụ sẽ được chia sẻ để họ cùng nhau hưởng thụ các lợi ích chung đó.
Lồng ghép thông tin thông qua các cuộc thi, hoạt động văn nghệ, thể thao là một trong những hình thức tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được doanh nghiệp và công đoàn triển khai thực hiện. Tuy hoạt động này không thể tổ chức thường xuyên nhưng ở mức độ thỉnh thoảng (vài lần/tháng) thì được người lao động ngành Dệt may Việt Nam đánh giá cao nhất (40,1%). Tương tự, việc cung cấp thông tin qua các lớp đào tạo, tập huấn, tuyên truyền, truyền thông của doanh nghiệp được người lao động ngành Dệt may Việt Nam đánh giá là hiếm khi tiếp cận (36,6%). Nguyên nhân là số lượng người lao động tham gia hoạt động này chiếm tỷ lệ rất nhỏ, dường như nó trở thành xa lạ đối với hầu hết mọi người.
Đối với việc tiếp cận thông tin qua đọc sách, tài liệu tại thư viện cộng đồng, tủ sách tại doanh nghiệp có tỷ lệ thấp nhất. 36,7% người được hỏi trả lời không tiếp cận thông tin qua kênh trên. Nguyên nhân là đa số người lao động không có thời gian đọc sách, nghiên cứu tài liệu tại thư viện. Đánh giá về chủ thể tích cực trong hoạt động cung cấp thông tin cho người lao động ngành Dệt may Việt Nam, kết quả cán bộ công đoàn được cho là chủ thể tích cực nhất trong các hoạt động thông tin cho người lao động tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam. Điều này thể hiện ở con số 74,1% người tham gia khảo sát lựa chọn, đánh giá. Thực tiễn, công tác thông tin – truyền thông của hệ thống công đoàn được triển khai xuyên suốt ở cả bốn cấp gồm Trung ương (Tổng Liên đoàn); cấp tỉnh, thành, ngành, tổng công ty; cấp trên trực tiếp cơ sở (cấp quận, huyện, công đoàn các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất) và cấp cơ sở tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp.
3. Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong năng lực tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam
3.1. Kết quả đạt được
Nghiên cứu đo mức độ đánh giá chung về hiệu quả tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam chỉ ra: trong số những người có tiếp cận thông tin từ phía các chủ thể truyền thông, có 77,6% người lao động cho rằng việc tiếp cận thông tin là rất hiệu quả, trong khi đó tỷ lệ cho rằng bình thường chiếm tỷ lệ 22% và đánh giá không hiệu quả khá thấp chiếm 0,5%. Nguyên nhân của việc tiếp cận thông tin rất hiệu quả là thông tin tiếp cận bổ ích (29,8%), đầy đủ, toàn diện (23,3%), ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu (19,4% ).
Về thuận lợi, 64,6% số người được hỏi trả lời là internet và mạng xã hội phổ biến rộng rãi; 62,8% số người được hỏi trả lời là đa dạng nguồn cung cấp thông tin; 55,7% số người được hỏi trả lời là nhiều kênh thông tin chi tiết, chính thống; tiếp theo là các yếu tố như hình thức thể hiện thông tin sinh động, dễ tiếp cận; cán bộ truyên truyền am hiểu, tận tình; thông tin phổ biến nhanh, kịp thời, rõ ràng….
Đa số người lao động có thái độ nghe (80.8%), đọc (71,9%) thông tin; có 32,4% số người được hỏi trả lời khi tiếp cận thông tin có hỏi lại/phản hồi. Điều này cho thấy, một bộ phận người lao động đã có nhận thức đúng đắn cũng như phản hồi tích cực đối với các thông tin nhận được và họ ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm tra độ xác thực của thông tin.
3.2. Những vấn đề đặt ra
Kết quả khảo sát cho thấy, có 54,5% số người được hỏi trả lời có kiểm tra, giám sát nhưng không thường xuyên và chỉ kiểm tra, giám sát các thông tin hữu ích với bản thân; có 40,2% số người được hỏi trả lời luôn kiểm tra, giám sát mọi thông tin mới. Điều này có thể dẫn tới những hậu quả tiêu cực do người lao động tiếp cận thông tin sai lệch, độc hại gây ra và dễ bị xâm phạm thông tin cá nhân. Trong tổng số người có tiếp cận thông tin, cho thấy người lao động ngành Dệt may Việt Nam phản hồi thông tin do doanh nghiệp và công đoàn cung cấp chiếm tỷ lệ cao, lần lượt là 44,7% và 40,7% và họ phản hồi trực tiếp qua kênh cán bộ công đoàn, cán bộ doanh nghiệp, cán bộ chính quyền địa phương. Đối với thông tin do các kênh truyền thông cung cấp thì họ lựa chọn kênh phản hồi là mạng xã hội. Đây là điểm khác biệt giữa người lao động ngành Dệt may Việt Nam với người lao động bên ngoài.
Trong quá trình tiếp cận thông tin, người lao động ngành Dệt may Việt Nam còn gặp phải nhiều khó khăn: chính sách khó hiểu, rắc rối, bất hợp lý (37,9%); thời gian nhận thông báo và phổ biến tại khu vực sống chậm trễ (37,7%); Không được phổ biến rộng rãi (36,8%); đặc biệt là tình trạng quá nhiều thông tin gây nhiễu (60,5%). Về nguyên nhân cản trở việc đem lại hiệu quả của việc tiếp cận thông tin thì lý do được người lao động ngành Dệt may Việt Nam đánh giá chiếm tỷ lệ cao nhất là “Thông tin tiếp cận không đầy đủ, toàn diện”, “Thông tin tiếp cận khó hiểu, dài dòng”, “Thông tin tiếp cận không bổ ích” còn lại các lý do khác chiếm tỷ lệ thấp hơn như: về thời gian truyền thông, cách thức truyền thông không phù hợp, thiếu ví dụ tình huống cụ thể… Như vậy, có thể thấy 3 lý do trên đều liên quan đến nội dung thông tin. Đây là hướng gợi mở giúp cho nhà nghiên cứu có những gợi ý giải pháp phù hợp để đảm người lao động sẽ được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và gần gũi, dễ hiểu, bổ ích nhất với người lao động.
Như vậy, từ nghiên cứu thực trạng khảo sát cho thấy, người lao động ngành Dệt may Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận thông tin thiết yếu liên quan đến việc làm, quyền lợi, an toàn lao động và chính sách pháp luật. Nguyên nhân đến từ cả phía người lao động (hạn chế về thời gian, kỹ năng, thiết bị), doanh nghiệp (thiếu minh bạch, chưa chủ động công khai thông tin), tổ chức công đoàn (năng lực truyền thông chưa cao) và hệ thống pháp luật (thiếu quy định cụ thể, chế tài rõ ràng).
4. Một số giải pháp
Một là, nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin cho người lao động.
Trách nhiệm xây dựng nội dung, xác thực thông tin, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và tổ chức hoạt động tương tác hai chiều cần được phân tách rõ ràng: doanh nghiệp đảm nhận vai trò cung cấp thông tin trực tiếp liên quan đến chính sách nội bộ, điều kiện lao động, phúc lợi, cũng như tạo điều kiện hạ tầng truyền thông trong nhà máy. Công đoàn cơ sở giữ vai trò cầu nối, chuyển tải các thông tin pháp luật, chế độ chính sách của Nhà nước và tổ chức Công đoàn, đồng thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng từ cơ sở. Cơ quan quản lý nhà nước cần bảo đảm hành lang pháp lý minh bạch, đồng bộ, tăng cường các công cụ hỗ trợ kỹ thuật và giám sát thực thi thông tin đến người lao động.
Bên cạnh đó, việc thiết kế nội dung, hình thức và phương pháp truyền thông cũng cần đổi mới, phù hợp với đặc điểm của từng nhóm lao động. Tiếp theo là xây dựng chiến lược, chiến thuật và mô hình truyền thông phù hợp làm nền tảng để nâng cao hiệu quả triển khai. Điều này đòi hỏi phải có nghiên cứu bài bản, định vị đối tượng, phân khúc thông tin, ứng dụng công nghệ số và đo lường hiệu quả lan tỏa theo thời gian thực.
Hai là, xây dựng quy trình cung cấp thông tin đơn giản, ngắn gọn và hiệu quả.
Trong bối cảnh chuyển đổi số và cạnh tranh lao động ngày càng gia tăng, việc đảm bảo thông tin đến với người lao động một cách kịp thời, dễ hiểu và chính xác không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn phản ánh năng lực quản trị hiện đại của doanh nghiệp.
Từ khảo sát thực tiễn, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp trọng tâm như: công khai, minh bạch nguồn thông tin, tạo điều kiện để người lao động dễ dàng tra cứu khi cần. Phân loại nhóm lao động, thiết kế nội dung và kênh truyền thông phù hợp với từng đối tượng. Áp dụng mô hình “5 bước truyền thông hiệu quả”, từ xác định nhu cầu đến đánh giá phản hồi và thí điểm “Phòng truyền thông Công đoàn thông minh” tại các đơn vị đủ điều kiện về nhân lực và công nghệ. Tăng cường đối thoại, tương tác hai chiều, xây dựng môi trường làm việc dân chủ và gắn kết.
Ba là, đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, truyền thông.
Theo các chuyên gia truyền thông hiện đại, ba lực lượng chính đang định hình “bản đồ thông tin” xã hội đương đại, gồm: báo chí truyền thống, mạng xã hội và các cá nhân có ảnh hưởng (KOLs, influencers). Trong đó, nhóm “thủ lĩnh thông tin” (opinion leaders) – những cá nhân có khả năng dẫn dắt dư luận – ngày càng đóng vai trò then chốt trong việc định hướng tư tưởng, hình thành quan điểm và thúc đẩy hành vi cộng đồng. Xu thế này đặt ra yêu cầu mới trong công tác tuyên truyền: đội ngũ cán bộ không chỉ cần vững vàng về tư tưởng chính trị mà còn phải có tư duy truyền thông hiện đại, khả năng thích ứng công nghệ và năng lực lãnh đạo thông tin trong môi trường số.
Bốn là, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người lao động theo quy định của pháp luật.
Cần tăng cường vai trò giám sát của tổ chức công đoàn, nhất là trong việc yêu cầu doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc quy định về công khai thông tin liên quan đến tiền lương, phúc lợi, an toàn lao động và hợp đồng lao động. Doanh nghiệp phải bảo đảm cung cấp thường xuyên các thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động mà người lao động có quyền được biết – trừ những nội dung thuộc phạm vi bí mật kinh doanh hoặc công nghệ theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc này là điều kiện tiên quyết để xây dựng môi trường làm việc minh bạch, dân chủ và bền vững.
Năm là, hoàn thiện pháp luật và thực hiện các quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin cho người lao động.
Một trong những bất cập nổi bật hiện nay là thiếu sự đồng bộ và liên thông giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh quyền tiếp cận thông tin của người lao động. Hiến pháp năm 2013 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã xác lập quyền được thông tin như một quyền hiến định, phạm vi điều chỉnh vẫn chủ yếu tập trung vào khu vực công, để lại khoảng trống pháp lý đáng kể trong khu vực doanh nghiệp tư nhân – nơi sử dụng phần lớn lực lượng lao động.
Xây dựng văn bản hướng dẫn chuyên biệt về quyền tiếp cận thông tin trong khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân và FDI. Quy định rõ trách nhiệm cung cấp thông tin của người sử dụng lao động theo từng nhóm nội dung (lương thưởng, hợp đồng lao động, phúc lợi, an toàn…), với thời hạn và hình thức cụ thể. Tăng cường cơ chế giám sát, xử lý vi phạm thông qua vai trò của tổ chức công đoàn và thanh tra lao động. Lồng ghép quyền tiếp cận thông tin vào các quy định về minh bạch quản trị doanh nghiệp, bảo đảm tính hệ thống và khả thi trong thực hiện.
Sáu là, cung cấp kiến thức, hướng dẫn kỹ năng để người lao động chủ động nâng cao năng lực tiếp cận thông tin.
Người lao động không chỉ là đối tượng thụ hưởng thông tin, mà còn là chủ thể trung tâm trong toàn bộ quá trình tiếp cận, xử lý và phản hồi thông tin. Việc nâng cao năng lực tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam không thể chỉ trông đợi vào sự hỗ trợ một chiều từ doanh nghiệp hay tổ chức công đoàn mà cần xuất phát từ chính nhận thức, hành động và nhu cầu phát triển của bản thân người lao động.
Năng lực này chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi người lao động chủ động tham gia vào quá trình tiếp nhận và sử dụng thông tin, đồng thời, được kết nối với các thiết chế hỗ trợ có trách nhiệm xã hội, như: công đoàn cơ sở, hệ thống pháp luật, nền tảng công nghệ và truyền thông số. Chỉ khi xác lập được vai trò trung tâm của người lao động, các giải pháp nâng cao năng lực tiếp cận thông tin mới thực sự bền vững và có chiều sâu.
Bảy là, đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu nhu cầu tiếp cận thông tin của người lao động.
Một trong những tiền đề quan trọng để nâng cao năng lực tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam là hiểu rõ nhu cầu, mối quan tâm, ưu tiên thông tin và rào cản truyền thông của họ. Điều này không thể đạt được nếu thiếu các nghiên cứu định tính và định lượng bài bản, có chiều sâu và được đầu tư đầy đủ về tài chính cũng như nhân lực chuyên nghiệp. Trước hết, cần khẳng định rằng nghiên cứu nhu cầu tiếp cận thông tin không thể là hoạt động mang tính hình thức, đối phó hay ngắn hạn. Việc triển khai khảo sát quy mô lớn, toàn diện trong toàn ngành là một nhiệm vụ chiến lược, giúp các chủ thể truyền thông “biết người lao động cần gì để truyền thông đúng và trúng”. Dữ liệu nghiên cứu chính là cơ sở để thiết kế nội dung, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và xây dựng các mô hình truyền thông đa tầng hiệu quả.
Ngược lại, nếu xem nhẹ hoặc không đầu tư nghiêm túc cho công tác này, ngành Dệt may hoàn toàn có thể đối mặt với những hệ lụy, như: khoảng trống thông tin, sai lệch nhận thức, khủng hoảng truyền thông và đặc biệt là sự xói mòn niềm tin của người lao động đối với công đoàn và doanh nghiệp. Vì vậy, việc coi nghiên cứu nhu cầu tiếp cận thông tin như một trụ cột trong chiến lược truyền thông ngành là lựa chọn không thể thay thế, nếu muốn xây dựng môi trường lao động minh bạch, dân chủ và bền vững trong thời đại số.
Chú thích:
1. Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài “Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin cho người lao động ngành Dệt May Việt Nam”.
2. Các số liệu trong bài viết là kết quả khảo sát và phân tích khi thực hiện đề tài “Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin cho người lao động ngành Dệt May Việt Nam” của tác giả và các cộng sự.
Tài liệu tham khảo:
1. Breivik, P. S. Putting libraries back in the in- formation society, http://connection.ebscohost.com
2. Diễn đàn về quyền tiếp cận thông tin của người lao động (2013). https://vovworld.vn.
3. Bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và những kiến nghị. https://luatlaodong.com.vn.
4. Người lao động và quyền được tiếp cận thông tin. https://haiquanonline.com.vn.
5. The Alexandria Proclamation on Information Literacy and Lifelong Learning. http://milunesco.unaoc.org.
6. Tăng cường quyền tiếp cận thông tin của người lao động (2013). https://soldtbxh.thainguyen.gov.vn.