Thiếu tá Phạm Viết Thắng
Hệ 5, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, nhất là trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế – xã hội bền vững, bảo vệ ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm tiếp tục củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là sau khi Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) được ban hành. Trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới và những kết quả đạt được, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả sức mạnh đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Đại đoàn kết toàn dân tộc; Đảng lãnh đạo; phát triển bền vững; đổi mới; chính sách dân tộc.
1. Đặt vấn đề
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong suốt hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, mở rộng và phát huy mạnh mẽ, trở thành nền tảng vững chắc của sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết không chỉ là động lực nội sinh của quá trình phát triển đất nước mà còn là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ lịch sử.
2. Quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến vai trò của đại đoàn kết, một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự tôn dân tộc. Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta trong suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, như: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”1. Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân…; (2) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đến Đại hội VIII (năm 1996), Văn kiện Đại hội của Đảng một lần nữa khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”2. Đại hội IX (năm 2001) của Đảng đã nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”3. Đại hội X (năm 2006) chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4. Đại hội XI (năm 2011) tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, nêu rõ sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội XII (năm 2016) cũng nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”5.
Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng đã bổ sung một số nội dung, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” được đề ra để quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải đẩy mạnh, phát huy cao độ truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII về phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc, ngày 24/11/2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.
Như vậy, xuyên suốt tiến trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn nhất quán coi đại đoàn kết toàn dân tộc là nền tảng chiến lược, động lực chủ yếu và nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Trước yêu cầu mới, cần tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa sâu sắc các quan điểm của Đảng, để phát huy tối đa sức mạnh khối đại đoàn kết trong sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.
3. Những thành tựu nổi bật trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Một là, dưới sự lãnh đạo đúng đắn và nhất quán của Đảng, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã từng bước được củng cố, phát huy mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Đại đoàn kết đã trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng, là “điểm tựa vững chắc” góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hai là, hệ thống chính trị được củng cố vững chắc; vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội được nâng cao. Hoạt động phối hợp giữa các tổ chức này với cấp ủy, chính quyền các cấp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn trong việc tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh Nhân dân, nhất là trong thực hiện các chủ trương lớn, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, phòng, chống dịch bệnh, thiên tai…
Ba là, đại đoàn kết dân tộc đã được thể chế hóa bằng nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và đồng bộ, đặc biệt là thông qua các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ, tiêu biểu, như: Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Nghị quyết Đại hội XI, XII, XIII của Đảng. Các chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách với người có công, người yếu thế… được triển khai nhất quán góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bốn là, tình hình đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng và bảo đảm theo quy định của pháp luật; môi trường văn hóa, giáo dục, y tế, an sinh xã hội được cải thiện rõ rệt, góp phần củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội.
Năm là, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được tăng cường, nhất là trong các thời điểm khó khăn như đại dịch Covid-19, thiên tai, khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân ngày càng được củng cố thông qua các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn, nhất là Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.
Sáu là, công tác đối ngoại nhân dân và chính sách đại đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được đẩy mạnh, phát huy tinh thần yêu nước, hướng về cội nguồn của kiều bào, đóng góp ngày càng thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
4. Một số hạn chế
Thứ nhất, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân về vị trí, vai trò, ý nghĩa chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa đầy đủ, chưa toàn diện, dẫn đến tình trạng triển khai thực hiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết ở một số địa phương, cơ sở còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu, chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Thứ hai, việc thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc còn chậm, thiếu đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Một số chính sách chưa phù hợp với thực tiễn hoặc chưa được thực thi nghiêm túc, dẫn đến khoảng cách phát triển giữa các vùng miền còn lớn, đặc biệt là giữa vùng đô thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội ở một số nơi, chưa thực sự phát huy được vai trò là trung tâm đoàn kết, là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Tính chủ động, sáng tạo trong công tác vận động, tập hợp quần chúng, nhất là ở cơ sở còn yếu.
Thứ tư, công tác dân vận trong các cơ quan nhà nước, chính quyền, lực lượng vũ trang chưa được quan tâm đúng mức, còn biểu hiện hành chính hóa, thiếu linh hoạt, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị, chưa thật sự phát huy tinh thần “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”.
5. Giải pháp phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với việc phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là hạt nhân của khối đại đoàn kết.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay, công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng luôn được Đảng quan tâm chỉ đạo và thực hiện. Những chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước là kết quả của nhiều yếu tố. Nhưng việc giữ vững khối đoàn kết nhất trí trong Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, là biểu tượng của “đạo đức và văn minh”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng, luôn tiên phong gương mẫu… Đó là những yếu tố đã tạo nên sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với dân; Đảng đã “hóa thân” vào dân tộc và đại diện cho lợi ích của dân tộc và Nhân dân Việt Nam.
Hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công tác xây dựng Đảng đang đối diện với nhiều nguy cơ thách thức. Trong đó có những nguy cơ thách thức có thể đe dọa trực tiếp đến khối đoàn kết, nhất trí trong nội bộ Đảng, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết dân tộc. Biểu hiện nguy cơ rõ nhất là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, đặc biệt là tập trung phòng, chống 27 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XII). Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, vì liên quan tới vấn đề tư tưởng và thường có biểu hiện ngấm ngầm, từng bước gặm nhắm lòng tin của người dân. Để thực hiện tính kiên quyết trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì trong quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc kỷ luật tự giác, nghiêm minh của Đảng, chống phải đi đôi với xây và phải lấy xây làm chính. Cần phải tiến hành đồng bộ, toàn diện đối với mọi tổ chức, cá nhân, gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh, phê bình với các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế.
Hai là, mở rộng thực hành đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, hình thức phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến vào các vấn đề lớn, quan trọng, từ kinh tế – xã hội đến chính trị, văn hóa cả đất nước. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được thực hiện chu đáo, bảo đảm Nhân dân có cơ hội bày tỏ ý kiến một cách thẳng thắn, đồng thời khuyến khích các cuộc trao đổi, tranh luận trên tinh thần xây dựng, tôn trọng sự khác biệt. Cùng với đó, tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa, hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” gắn với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Mọi hoạt động cần tuân thủ pháp luật, kỷ luật và kỷ cương, bảo đảm sự công bằng và minh bạch trong xã hội. Đặc biệt, cần tăng cường công tác giám sát, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị để nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy sức mạnh của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Ba là, coi trọng việc giải quyết đúng đắn và hài hòa các mối quan hệ lợi ích, đặc biệt là lợi ích của Nhân dân lao động, tăng cường và củng cố khối liên minh công nhân – nông dân và trí thức trong điều kiện hiện nay.
Để xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương và chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng; phát huy dân chủ trên cơ sở bảo đảm thực hiện tốt mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân trong xã hội. Trong xã hội, mỗi giai cấp, tầng lớp có lợi ích riêng khác nhau, song về cơ bản lại thống nhất ở lợi ích dân tộc chân chính, cùng mưu cầu một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Bên cạnh lợi ích chung, mỗi giai cấp có những lợi ích riêng, vì vậy, đường lối, chính sách và quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước phải bảo đảm hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích chính đáng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bảo đảm chăm lo xây dựng cơ sở xã hội của chế độ.
Bốn là, nâng cao cảnh giác, trí tuệ và bản lĩnh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng và đường lối của Đảng, bảo vệ phong trào quần chúng và khối đại đoàn kết dân tộc.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị dùng mọi thủ đoạn thâm độc hòng thực hiện mục đích xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Kiểu chống phá không phải bằng súng đạn, cũng không phải như thời bao vây, cấm vận, cô lập… mà là “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong nội bộ cán bộ và Nhân dân, gây chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng, phá vỡ sự nhất trí về tư tưởng và tinh thần của toàn xã hội, làm lung lạc và xói mòn lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, để bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần nghiên cứu kỹ bối cảnh hiện nay, nhận diện rõ đặc điểm, tính chất, biểu hiện trong quan điểm của các lực lượng chống phá khối đại đoàn kết toàn dân sao cho đúng đắn để có biện pháp đấu tranh phù hợp. Trước hết, cần nhận rõ chiêu thức mới của các thế lực thù địch là, chủ động thâm nhập, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua con đường hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, đối ngoại, giáo dục và đào tạo. Đây là những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, mở rộng trong quá trình hội nhập quốc tế.
6. Kết luận
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là tài sản vô giá của cách mạng Việt Nam, là nền tảng quan trọng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục củng cố, phát huy sức mạnh toàn dân, đưa tinh thần đoàn kết trở thành động lực nội sinh để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 47. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 549.
2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). Phần I. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 661, 910.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội X, XI, XII). Phần II. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 126.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 159.
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.