ThS. Đinh Thị Thu Phương
Trường Đại học Hùng Vương
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Liên khu Việt Bắc giữ vai trò là hậu phương chiến lược của cách mạng cả nước. Với truyền thống yêu nước, đoàn kết, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã xây dựng, phát triển kinh tế địa phương bảo đảm tự cung, tự cấp và phục vụ kháng chiến. Trên cơ sở phương pháp lịch sử – logic kết hợp phân tích so sánh, bài viết chỉ ra các chủ trương kinh tế tại Liên khu Việt Bắc không chỉ phục vụ chiến đấu mà còn hình thành nền móng tư tưởng cho một nền kinh tế tự chủ, tự cường. Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ mối liên hệ giữa tinh thần kinh tế kháng chiến và định hướng phát triển bền vững hôm nay, từ đó, khẳng định tầm quan trọng của bài học lịch sử trong việc củng cố nội lực dân tộc và xây dựng bản lĩnh phát triển độc lập giữa bối cảnh toàn cầu hóa phức tạp.
Từ khóa: Tự lực kinh tế; tự cường dân tộc; kinh tế kháng chiến; Liên khu Việt Bắc.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Liên khu Việt Bắc không chỉ là trung tâm chính trị, quân sự mà còn là hậu phương kinh tế vững chắc của cả nước. Việc tổ chức sản xuất trong điều kiện thiếu thốn, bị phong tỏa đã hun đúc nên tinh thần tự lực, tự cường – một giá trị bền vững vượt ra ngoài khuôn khổ thời chiến.
Việc nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế ở Liên khu giai đoạn 1949 – 1954 không chỉ góp phần làm sáng tỏ tư duy kinh tế kháng chiến của Đảng nói chung và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc nói riêng mà còn gợi mở những bài học quý báu cho chiến lược phát triển nội lực quốc gia hiện nay. Tuy đã có nhiều công trình đề cập đến vai trò chiến lược của Việt Bắc, nhưng góc nhìn kinh tế vẫn còn là khoảng trống cần được bổ khuyết và nghiên cứu sâu hơn.
2. Kinh tế tự lực thời chiến ở Liên khu Việt Bắc
Việt Bắc là một địa bàn rộng lớn ở phía Bắc Việt Nam “gồm những tỉnh trung du và thượng du Bắc kỳ, địa thế hiểm trở, nhiều rừng núi…”1. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Bắc được hình thành từ những căn cứ du kích đầu tiên trong cuộc vận động giải phóng dân tộc tiến tới đấu tranh giành chính quyền, đó là căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Sau đó mở rộng và phát triển thành khu giải phóng rộng lớn chính là căn cứ địa Việt Bắc sau này. Từ cuối năm 1946, địa bàn Việt Bắc chia làm ba khu: Khu I, Khu X và Khu XII; đến tháng 7/1947, Khu XIV được thành lập. Xuất phát từ những yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 27/10 – 28/10/1949, Trung ương Đảng đã thông qua việc thống nhất hai Liên khu I và Liên khu X thành Liên khu Việt Bắc. Liên khu Việt Bắc giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với địa hình hiểm trở, rừng núi rộng lớn, Việt Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng trung tâm, là “thủ đô kháng chiến”, nơi đặt các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, Quốc hội. Từ đây, các chủ trương, đường lối kháng chiến được hoạch định và chỉ đạo toàn quốc. Việt Bắc còn là hậu phương vững chắc về nhân lực, vật lực, là nơi xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức sản xuất, bảo đảm hậu cần cho tiền tuyến.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Chính quyền cách mạng còn non trẻ, kinh tế kiệt quệ, nạn đói năm 1945 đã làm ngân khố trống rỗng, hơn 90% dân số mù chữ. Ngày 19/12/1946, thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc với phương châm: toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Đường lối kháng chiến tự lực cánh sinh thể hiện bản lĩnh và tư duy độc lập của Đảng trong những thời khắc khó khăn của cách mạng. Chính vì vậy, việc xây dựng hậu phương kháng chiến trong đó có Liên khu Việt Bắc nhằm bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các mặt trận có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc kháng chiến.
Là một vùng rộng lớn ở phía Bắc, nơi tập trung đông đảo đồng bào các dân tộc thiểu số, trình độ canh tác còn hạn chế, đời sống gặp nhiều khó khăn nhưng Liên khu Việt Bắc vinh dự, tự hào được Trung ương chọn làm nơi đặt căn cứ địa cách mạng cả nước. Chính vì vậy, thực dân Pháp thường tập trung hỏa lực đánh phá về mặt quân sự, phá hoại về mặt kinh tế, tìm mọi cách cô lập Việt Bắc nhằm làm suy yếu thực lực cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Tình hình kinh tế trong năm 1949 ở Liên Khu Việt Bắc gặp rất nhiều khó khăn: diện tích và thu hoạch ở miền xuôi giảm sút; chăn nuôi gia súc sụt kém 50% vì nạn dịch tễ2; giao thông vận tải để tiếp tế lương thực cho bộ đội và nguyên vật liệu cho sản xuất hạn chế; tiểu công nghiệp không phát triển được do thiếu nguyên liệu; sản xuất không đủ tiêu dùng, cán cân xuất nhập khẩu quá chênh lệch… Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu nhận định: “Năm 1949 mặt trận kinh tế – tài chính kém hẳn các mặt trận khác (chính trị, quân sự)”3. Trong khi đó, năm 1950, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng phải chuyển mạnh sang tổng phản công. Đảng bộ Liên khu xác định nhiệm vụ cách mạng trong năm 1950 là rất nặng nề. Để giải quyết những khó khăn về kinh tế, Đảng bộ Liên khu chủ trương phải ổn định đời sống nhân dân, củng cố kinh tế ở Liên khu. Trong đó “tích cực diệt nạn đói trước mắt… Bao vây và phá hoại kinh tế địch… Giữ vững giá trị đồng bạc Việt Nam…”4. Có giải quyết được nạn đói, ổn định đời sống mới huy động được mọi lực lượng nhân dân đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu, sản xuất nông nghiệp của Liên khu đã vượt qua được khó khăn, giữ vững được sản xuất và có bước phát triển.
Bước sang năm 1951, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế, đáp ứng những nhu cầu mới của kháng chiến. Đại hội khóa II của Đảng (02/1951) khẳng định: “Muốn thắng địch về quân sự, chính trị, phải có một cơ sở kinh tế vững chắc, phải phát triển kinh tế kháng chiến nhằm mục đích làm cho quân và dân ta đủ ăn, đủ mặc, có súng, có đạn để đánh lâu”5. Để triển khai đường lối của Trung ương Đảng, Đại hội Đảng bộ Liên khu Việt Bắc lần thứ nhất (từ ngày 10/5 – 20/5/1951) xác định: “vấn đề kinh tế – tài chính là một công tác chủ yếu của ta lúc này, vì nó quyết định sự thắng bại quân sự của ta”6 .
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ Liên khu, Ban Thường vụ Liên khu ủy Việt Bắc đã ban hành Thông tri số 61-TT/LKVB ngày 22/8/1951 về việc vận động và lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh vụ mùa thắng lợi, trong đó nhắc nhở các địa phương quán triệt tinh thần tự lực cánh sinh, không trông chờ, ỷ lại vào Trung ương. Mỗi cán bộ địa phương phải nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện vụ mùa thắng lợi để tuyên truyền, vận động và “tổ chức chăm bón, làm cỏ, bón phân để tăng năng suất,cần gây thành một phong trào quần chúng thi đua sôi nổi”7. Đồng thời, chủ động giải quyết những khó khăn về nhân công trong sản xuất ở các địa phương bằng hình thức đổi công phù hợp.
Cuối năm 1951, thực dân Pháp phá hoại các công trình thủy lợi lớn ở Liên khu Việt Bắc, như đập Thác Huống, khiến “25.141 mẫu lúa và hoa màu của ba huyện Yên Thế, Hiệp Hòa, Việt Yên (Bắc Giang) không có nước tưới”8. Trước tình hình đó, Liên khu huy động 34.000 ngày công sửa đập, vận động dân làm thủy lợi nhỏ, cứu được hàng nghìn mẫu lúa. Song song với nông nghiệp, các nghề thủ công, như: dệt vải, rèn nông cụ được tạo điều kiện phục hồi và phát triển, 6 tháng đầu năm 1950 đồng bào trong Liên khu đã sản xuất được 71.122 mét vải9, năm 1951 đã sản xuất được 56.275 chiếc lưỡi cày10 để bảo đảm nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
Bước sang năm 1952, thực dân Pháp điên cuồng chống phá, khiến cuộc kháng chiến ngày càng khốc liệt. Trước tình hình đó, sản xuất và tiết kiệm trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải đặt phong trào sản xuất và tiết kiệm là trung tâm của phong trào thi đua ái quốc”11. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu và sự chỉ đạo của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu, phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh. Các địa phương chuyển hướng canh tác, khai hoang, mở rộng diện tích gieo trồng. Tỉnh Bắc Cạn đưa gần “5.000 mẫu vào cày cấy, trên 95 phần trăm diện tích hoang hóa trước đây được đưa vào sản xuất”12. Đồng thời, Nhân dân chú trọng hơn đến chăn nuôi, chủ động phòng, chống dịch bệnh cho gia súc.
Đối với phát triển thương nghiệp, đặc biệt là mở rộng thương mại biên giới với Trung Quốc, Đảng bộ Liên khu xác định: “Xây dựng các cơ quan mậu dịch trong toàn Liên khu, chú trọng phát triển các thương khẩu mậu dịch ở biên giới và ở những nơi giáp địch”13. Công tác mậu dịch đã góp phần bình ổn giá cả, trong năm 1952 công tác mậu dịch đã góp phần bình ổn giá cả; giá gạo ở Thái Nguyên đầu tháng 4 là 2.300 đồng/kg đến giữa tháng 9 tăng lên 6.800 đồng/kg nhưng đến cuối tháng 10 đã giảm xuống 4.300 đ/kg. Phú Thọ giá muối trong tháng 12/1952 dao động từ 12.000-13.000 đồng/kg, ngày 31/12/1952, giá gạo giảm còn 5000 đồng/kg…14. Đây là sự cố gắng to lớn của Đảng bộ và Nhân dân trong Liên khu nhằm thúc đẩy việc thông thương hàng hóa, góp phần cải thiện đời sống nhân dân và tích lũy về mặt tài chính.
Với những kết quả trên, Liên khu đã bảo đảm đóng góp cho Nhà nước, tăng nguồn dự trữ lương thực cho các chiến dịch lớn. Khi Trung ương quyết định mở chiến dịch Hòa Bình và chiến dịch Tây Bắc, tổng số lương thực phải cung cấp và số ngày công phục vụ hai chiến dịch là “1.893 tấn gạo, 12.900.000 ngày công. Phần lớn số gạo và dân công do Việt Bắc, các tỉnh trung du cung cấp”15. Những nỗ lực và cố gắng của đồng bào Liên khu Việt Bắc được Trung ương ghi nhận trong Đại hội chiến sĩ thi đua cả nước lần thứ nhất năm 1952, Liên khu vinh dự có 16 chiến sĩ thi đua nông nghiệp, 19 chiến sĩ thi đua công nghiệp16.
Sau Chiến dịch Tây Bắc, nhiều vùng đất đai và vựa thóc quan trọng, như: Nghĩa Lộ, Than Uyên, Điện Biên Phủ được giải phóng, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện chuyển sang tổng phản công. Yêu cầu cung cấp nhân lực, vật lực cho mặt trận ngày một tăng. Quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng và thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về kinh tế của Liên khu, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã thông qua Đề án về nhiệm vụ công tác kinh tế – tài chính năm 1953, trong đó “Đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm”, “ra sức vận động nhân dân phát triển sản xuất để cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, bồi dưỡng nhân lực và đề phòng nạn đói”17. Dưới sự lãnh đạo của Liên khu ủy, cấp ủy, chính quyền các địa phương đã đẩy mạnh tổ chức các tổ đổi công, kịp thời giúp đỡ nông dân giống, nông cụ, vật nuôi; đồng thời vận động Nhân dân tương trợ, giúp đỡ nhau sản xuất.
Với truyền thống yêu nước, quyết tâm thi đua vượt mọi khó khăn, sản xuất nông nghiệp của Liên khu Việt Bắc năm 1953 có sự phát triển rõ rệt: diện tích cấy tăng 25.913 mẫu lúa và 12.689 mẫu hoa màu, so với năm 1952, lúa vượt 675 mẫu, hoa màu vượt diện tích hơn 1.000 mẫu, nhiều nhất là ngô, khoai18. Năng suất trong toàn Liên khu từ “10 đến 15% là trung bình, ở Phú Thọ có chỗ tăng đến 30, 40%, có cánh đồng tăng tới 50%”19.
Cùng với sản xuất nông nghiệp, công tác cầu đường, giao thông vận tài trong năm 1953 tiến bộ rõ rệt hơn. Tuyến giao thông vận tải chiến lược đã hình thành, bao gồm: tuyến đường từ Liên khu Việt Bắc vào Liên khu III, Liên khu IV sang Tây Bắc đã nối liền các vùng tự do với vùng căn cứ địa của kháng chiến; phương tiện vận tải quốc doanh tập thể và tư nhân đều tăng. Hoạt động vận tải tư nhân được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện, nhiều đơn vị vận tải do tư nhân thành lập cũng xuất hiện ở các tỉnh,như: Phú Thọ, Thái Nguyên… Nhờ mạng lưới vận tải đa dạng này, tình trạng khan hiếm một số mặt hàng thiết yếu dần được cải thiện, giá cả trong Liên khu ổn định hơn. Bảo đảm lưu thông hàng hóa đã góp phần quan trọng vào việc củng cố hậu phương và bảo đảm hậu cần cho kháng chiến. Năm 1953, đồng bào Việt Bắc đã cung cấp cho mặt trận “hơn 1.000 tấn gạo,118 tấn thịt, 113 tấn rau khô (đỗ, lạc) và muối (rau khô vượt mức được 150%)”20.
Đầu năm 1954, thực hiện nhiệm vụ hậu phương cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm lương thực, thực phẩm cho mặt trận trong bối cảnh thực dân Pháp dùng không quân đánh phá ác liệt các tuyến đường từ Việt Bắc sang Tây Bắc. Mục tiêu của thực dân Pháp là cản trở tiếp viện từ hậu phương và viện trợ từ nước ngoài vào. Giao thông vận tải trở thành vấn đề nan giải. Vì vậy, Đảng bộ Liên khu xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng năm 1954 là công tác đường xá với quyết tâm “Địch càng ra sức phá hoại thì ta càng phải cố gắng sửa chữa”21. Với tinh thần khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ một “chiến dịch cầu đường” đã được triển khai trên quy mô lớn tại Liên khu Việt Bắc. Các cấp chính quyền tích cực tuyên truyền, động viên, huy động Nhân dân cùng cán bộ chiến sĩ cầu đường sửa chữa, bảo vệ các con đường huyết mạch. Trong toàn bộ thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, Liên khu Việt Bắc đã cung cấp: 4.680 tấn lương thực và 130.554 lượt dân công phục vụ chiến dịch22 với tổng 35.000 dân công23.
3. Khát vọng vươn mình của dân tộc trong thời đại mới
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Liên khu Việt Bắc đã trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc – hậu phương lớn của cả nước, đóng vai trò chiến lược trong công cuộc kháng chiến kiến quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu, tinh thần tự lực, tự cường đã thấm nhuần trong mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân. Tinh thần tự lực cánh sinh đã vượt lên hoàn cảnh bằng ý chí và hành động – chính là cội nguồn của sức mạnh Việt Nam, là biểu tượng của lòng yêu nước, đoàn kết và trí tuệ sáng tạo tiếp nối thế hệ của Nhân dân ta – trở thành giá trị lịch sử và là nguồn lực tinh thần vô giá cho công cuộc xây dựng đất nước hôm nay.
Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đang đứng trước một vận hội lớn – vận hội vươn mình mạnh mẽ trở thành quốc gia phát triển, có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số, biến động địa chính trị và biến đổi khí hậu, tinh thần tự cường dân tộc càng trở nên cấp thiết và mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, Đại hội XIII của Đảng, khẳng định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”24.
Tinh thần tự cường hôm nay là bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo trong từng con người, từng tổ chức, từng ngành, từng địa phương. Đó là việc chủ động xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập sâu rộng; phát triển công nghiệp hỗ trợ, làm chủ công nghệ lõi; đẩy mạnh chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; nâng cao nội lực quốc gia thông qua khoa học – công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về chuỗi cung ứng và công nghệ, tinh thần tự cường còn thể hiện ở nỗ lực xây dựng các doanh nghiệp nội địa mạnh, phát triển thương hiệu quốc gia, làm chủ chuỗi sản xuất và tạo giá trị bền vững. Thực tiễn đã chứng minh trong đại dịch Covid-19, tinh thần tự cường đó đã đưa Việt Nam, chủ động trong điều trị và kiểm soát dịch bệnh.
Tinh thần tự lực, tự cường được nuôi dưỡng trong thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước. Đó là khát vọng làm chủ tri thức, sẵn sàng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; là ý chí vươn lên trong học tập, lao động, không cam chịu tụt hậu. Từ vùng cao, vùng sâu đến đô thị, ngày càng nhiều mô hình thanh niên làm kinh tế giỏi, sáng tạo trong nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng chuyển đổi số trong giáo dục, truyền thông, dịch vụ… đã đem đến sức sống mạnh mẽ của tinh thần tự cường trong lớp trẻ.
Hành trình phát triển của đất nước không thể trông chờ vào ngoại lực mà phải bắt đầu từ sự thay đổi trong mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Trong hành trình đó, bài học về tự lực, tự cường từ thời kháng chiến có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc và cần được vận dụng một cách sáng tạo trong bối cảnh mới.
Thứ nhất, bài học quý báu về đặt niềm tin vào sức mạnh nội tại của dân tộc. Trong quá khứ, dù không có công nghệ hiện đại, không có nguồn viện trợ dồi dào, Nhân dân Việt Bắc vẫn tạo nên một hậu phương tự chủ, đủ sức nuôi quân đánh giặc. Ngày nay, khi Việt Nam đã hội nhập sâu với thế giới, càng cần chú trọng phát triển nội lực, không để rơi vào lệ thuộc công nghệ, nguyên vật liệu hay chuỗi cung ứng. Việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, có khả năng chống chịu cao với các cú sốc bên ngoài là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững.
Thứ hai, bài học về phát huy sức dân, đặt lợi ích của Nhân dân, của dân tộc lên trên hết vẫn luôn đúng đắn. Trong kháng chiến, mọi nguồn lực đều đến từ dân. Ngày nay, trong xây dựng đất nước, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, là người trực tiếp làm ra của cải vật chất, là lực lượng then chốt của mọi chính sách phát triển. Vì vậy, tinh thần tự cường phải bắt đầu từ mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương phát huy tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và dám chịu trách nhiệm.
Thứ ba, bài học về đoàn kết và chia sẻ giữa các vùng, miền, dân tộc trong cả nước vẫn mang ý nghĩa thời đại. Nếu Việt Bắc xưa là nơi cả nước gửi gắm niềm tin thì hôm nay, bài học đó cần được phát huy trong việc thu hẹp khoảng cách phát triển vùng miền, tạo động lực phát triển đồng đều, hài hòa, bền vững. Không để ai bị bỏ lại phía sau cũng chính là một biểu hiện của tinh thần tự cường.
Thứ tư, bài học quan trọng nhất là phải kết hợp ý chí với trí tuệ, biết tự lực nhưng không bảo thủ, biết tự cường nhưng không khép kín. Tự lực, tự cường trong kỷ nguyên mới không có nghĩa là “đóng cửa làm một mình” mà là chủ động làm chủ công nghệ, sáng tạo ra tri thức, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, sánh vai cùng các cường quốc năm châu bằng chính bản sắc và nội lực của mình. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc hôm nay đòi hỏi một thế hệ người Việt mới – giàu tri thức, bản lĩnh, có khát vọng và tinh thần tự cường mạnh mẽ. Đó là lớp trẻ dấn thân khởi nghiệp, là đội ngũ trí thức đổi mới sáng tạo, là những người nông dân, công nhân đang làm chủ công nghệ trong nông nghiệp thông minh, sản xuất xanh. Hơn bao giờ hết, tinh thần tự lực, tự cường cần được chuyển hóa thành hành động cụ thể trong mọi lĩnh vực: sản xuất, giáo dục, khoa học – công nghệ, quốc phòng – an ninh, văn hóa – xã hội.
4. Kết luận
Từ nền kinh tế tự lực thời chiến ở Liên khu Việt Bắc, chúng ta rút ra bài học sâu sắc về sức mạnh nội sinh, về tinh thần vượt khó, dám làm và biết đoàn kết vì mục tiêu lớn lao của dân tộc. Chính tinh thần đó đã trở thành động lực tự cường vững chắc cho công cuộc kiến thiết đất nước thời bình, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Khi thế giới biến động không ngừng với những thách thức toàn cầu, như: chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, cạnh tranh công nghệ…, bài học từ quá khứ càng thêm giá trị. Nếu biết kế thừa và phát triển những bài học quý báu từ cha ông, biết khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường trong thời đại mới, dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ hiện thực hóa khát vọng trở thành một quốc gia hùng cường, có vị thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, đưa non sông gấm vóc Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng bền vững. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “…Phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”… tận tâm, tận lực, tận hiến, phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam vinh quang, vì nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”25.
Chú thích:
1. Kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc (1946), in lần thứ 2. Tổng bộ Việt Minh xuất bản, tr. 27.
2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 – 1956. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 116, 121, 170.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 127.
6, 7, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 – 1956. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.122, 255, 124.
8, 12. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1992). Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 –1975). Tập II. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 314, 313.
9, 10. Viện Kinh tế (1966). Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 – 1954). H. NXB Khoa học Xã hội, tr.183, 185.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, tr.50.
14. Phông Liên hiệp các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban hành chính Liên khu Việt Bắc (1948 – 1956) và Ủy ban hành chính khu tự trị Việt Bắc (1956 – 1976): Đồ thị, bảng thống kê giá cả một số mặt hàng vải, gạo, muối trong Liên khu Việt Bắc năm 1952, số hồ sơ 22, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, tr. 19 – 34.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 94.
16. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (2013). Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu lần thứ nhất năm 1952. H. NXB Văn học, tr. 10 – 11.
17, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 – 1956. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 4, 17.
18, 19, 20, 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 –1956. Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 72, 72, 82, 81.
22. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991). Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). Tập 3. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 92.
23. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1992). Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 – 1975).Tập I. H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 353.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 34.
25. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”. https://tuyengiao.vn/phat-huy-cao-nhat-tinh-than-tu-chu-tu-tin-tu-luc-tu-cuong-tu-hao-dan-toc-155656



