Hoạch định chính sách công trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

(QLNN) – Cách mạng công nghiệp 4.0 là chủ đề được các chính phủ quan tâm và trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, các học giả và dư luận xã hội trong những năm trở lại đây. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào tập trung vào trả lời câu hỏi: Nhà hoạch định chính sách có thể ứng dụng những gì từ cách mạng công nghiệp 4.0 vào quá trình hoạch định chính sách công? Bài viết sẽ đề cập các yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạch định chính sách công và đề xuất một số giải pháp nhằm ứng dụng các yếu tố đó vào quá trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam.
Công cụ trực tuyến hỗ trợ hoạch định chính sách.
Về quy trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam

Hoạch định chính sách (HĐCS) công là giai đoạn đầu tiên của chu trình chính sách công (CSC). Trong giai đoạn này, các vấn đề công được nhận diện và được đưa vào chương trình nghị sự của nhà nước, được các nhà HĐCS nghiên cứu, xây dựng và ban hành một CSC. Có thể hiểu, HĐCS công là một quá trình mà qua đó, một vấn đề công được đưa vào chương trình nghị sự của nhà nước, cho đến xây dựng và ban hành một chính sách để giải quyết vấn đề công đó.

Xây dựng chính sách là giai đoạn thứ hai trong quy trình HĐCS công. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là xây dựng nội dung chính sách, để cung cấp cơ sở cho sự lựa chọn chính sách. Chính vì vậy, chất lượng CSC chủ yếu phụ thuộc vào giai đoạn xây dựng chính sách – điều này có nghĩa là muốn cải thiện chất lượng CSC thì trước hết phải cải thiện chất lượng xây dựng chính sách, trong đó, cần thực hiện tốt quy trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam như sau:

Theo quy định tại Chương II, mục 1, 2, 3, Chương IV, Chương V của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, quy trình HĐCS được hợp nhất vào quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Theo đó, quy trình HĐCS gồm 3 giai đoạn: (1) Thiết lập chương trình xây dựng văn bản chính sách; (2) Xây dựng dự thảo văn bản chính sách; (3) Ban hành và công bố văn bản chính sách (VBCS).

Thiết lập chương trình xây dựng văn bản chính sách1

Thiết lập chương trình xây dựng VBCS là quá trình mà qua đó, một đề nghị xây dựng văn bản chính sách được xây dựng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa vào chương trình xây dựng VBCS.

Thiết lập chương trình xây dựng chính sách, gồm: xây dựng đề nghị xây dựng VBCS; thẩm tra đề nghị xây dựng VBCS; xem xét và thông qua chương trình xây dựng VBCS. Xây dựng chính sách được xác định là nội dung quan trọng nhất, quyết định chất lượng của chính sách bao gồm các nội dung: xác định vấn đề, thiết lập mục tiêu chính sách, xác định các giải pháp giải quyết vấn đề, đánh giá tác động của giải pháp, phân tích chi phí và lợi ích của các giải pháp, lựa chọn chính sách.

Kết quả của giai đoạn này là xây dựng được đề nghị xây dựng VBCS và báo cáo đánh giá tác động chính sách đề xuất, lý giải sự cần thiết phải ban hành VBCS, lựa chọn được phương án chính sách và quyết định đưa đề nghị xây dựng VBCS vào chương trình xây dựng VBCS của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Xây dựng dự thảo văn bản chính sách

Xây dựng dự thảo VBCS là quá trình người soạn thảo sử dụng các phương pháp, cách thức, công cụ, mà chủ yếu là ngôn ngữ để biểu đạt nội dung chính sách dưới hình thức văn bản theo quy định của pháp luật, trước khi trình VBCS đó lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua.

Trong giai đoạn này, các cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo VBCS tiến hành các hoạt động để xây dựng bản dự thảo VBCS. Quá trình xây dựng dự thảo VBCS gồm nhiều nội dung và tuân thủ một quy trình nhất định, bao gồm các bước chính: thành lập ban soạn thảo; soạn thảo VBCS; tổ chức lấy ý kiến về dự thảo VBCS; thẩm định dự thảo VBCS; chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo và trình cơ quan thông qua dự thảo VBCS.

Ban hành và công bố văn bản chính sách

Ban hành VBCS là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền thảo luận để đi đến thống nhất các nội dung trong dự thảo VBCS, biểu quyết thông qua và ký ban hành VBCS.

Quy trình ban hành và công bố VBCS phụ thuộc vào thẩm quyền ban hành VBCS, gồm các bước cơ bản: trình dự thảo VBCS; thẩm định hoặc thẩm tra dự thảo VBCS; xem xét và thông qua dự thảo VBCS; ký ban hành VBCS; công bố VBCS.

Như vậy, quy trình HĐCS trên cho thấy: quy trình xây dựng chính sách được lồng ghép vào quy trình thiết lập chương trình xây dựng VBCS. Quy trình HĐCS này đã tách bạch được quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo VBQPPL (văn bản quy định chính sách), nhờ đó rút ngắn được thời gian soạn thảo VBQPPL (vì không phải tiến hành các hoạt động phân tích và xây dựng nội dung chính sách như quy định tại Luật Ban hành VBQPPL năm 2008). Vì chính sách đã được thông qua ngay trong giai đoạn thiết lập chương trình xây dựng VBCS, nên gắn trách nhiệm về chất lượng chính sách với chủ thể đề nghị chính sách; đồng thời, cơ quan trình các văn bản quy định chi tiết để thực hiện chính sách có nhiều thời gian cho việc xây dựng các văn bản, khắc phục tình trạng chính sách chậm được đưa vào thực tế.

Để xây dựng chính sách có chất lượng cao, những người tham gia HĐCS phải tiến hành một chuỗi các hoạt động có tính logic, quan hệ mật thiết với nhau – được gọi là phân tích chính sách. Các hoạt động này bao gồm: (1) Nhận diện vấn đề chính sách; (2) Thiết lập mục tiêu chính sách; (3) Thiết kế giải pháp chính sách; (4) Đánh giá tác động của chính sách và (5) Tham vấn các bên liên quan về chính sách dự kiến. Theo đó, các nhà HĐCS cần thực hiện các nhiệm vụ sau: tổng kết việc thi hành pháp luật hoặc đánh giá các VBQPPL hiện hành có liên quan đến đề nghị xây dựng VBCS; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến đề nghị xây dựng VBCS; tổ chức nghiên cứu khoa học về các vấn đề liên quan để hỗ trợ cho việc lập đề nghị xây dựng VBCS; nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; xây dựng nội dung CSC trong đề nghị xây dựng văn bản CSC; đánh giá tác động của từng chính sách; lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách; đăng tải báo cáo giải trình, tiếp thu trên cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức có đề nghị xây dựng văn bản…

Từ các nhiệm vụ nêu trên cho thấy, các hoạt động chính của xây dựng chính sách là thu thập thông tin, xử lý và phân tích thông tin để xây dựng nên nội dung chính sách và cung cấp cơ sở (lập luận và bằng chứng) cho việc lựa chọn chính sách của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ứng dụng các yếu tố của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạch định chính sách công ở Việt Nam

Những nội dung nghiên cứu ở trên cho thấy, các yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số (KTS) trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối (IoT) và Dữ liệu lớn (Big Data)2đều có thể hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động chính của xây dựng chính sách, chẳng hạn cung cấp, thu thập, trao đổi thông tin, dữ liệu (IoT và Big Data); xử lý thông tin và phân tích thông tin để giải quyết vấn đề (AI). Việc áp dụng này sẽ mang lại nhiều lợi ích như làm tăng tốc độ và hiệu quả xây dựng chính sách, tăng được tính công khai và minh bạch của quá trình xây dựng chính sách, nâng cao chất lượng của chính sách. Cụ thể:

– Xây dựng chính sách đòi hỏi một khối lượng thông tin, dữ liệu lớn về nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, áp dụng KTS vào quá trình xây dựng chính sách sẽ giúp cung cấp thông tin đầy đủ, đa dạng, chính xác và tăng tốc độ xử lý thông tin, từ đó rút ngắn thời gian xây dựng chính sách và tiết kiệm chi phí cho việc thu thập và xử lý thông tin.

– Trong xây dựng chính sách, nhà HĐCS phải vận dụng tri thức và rất nhiều kỹ thuật khác nhau dựa trên tri thức liên ngành của các bộ môn khoa học, như: chính trị học, hành chính công, luật học, kinh tế học, xã hội học vào phân tích vấn đề, thiết lập mục tiêu, xác định các giải pháp giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của từng giải pháp. Để làm được những nhiệm vụ trên, nhà HĐCS phải áp dụng các kỹ thuật để thu thập và xử lý thông tin cần thiết phục vụ việc xác định đúng vấn đề chính sách cần giải quyết và thiết kế được tất cả các phương án giải quyết vấn đề. Việc áp dụng KTS vào xây dựng chính sách sẽ tạo thuận lợi cho nhà HĐCS thực hiện tốt các nhiệm vụ trên.

– Một nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng chính sách là đánh giá tác động của các phương án chính sách và đề xuất lựa chọn phương án tối ưu. Đánh giá tác động chính sách đòi hỏi phải dự đoán được tất cả các tác động về kinh tế – xã hội, môi trường, thủ tục hành chính, tác động về giới, tác động đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật và các tác động khác của phương án giải quyết vấn đề.

Khi thực hiện nhiệm vụ này, nhà HĐCS không chỉ phải thu thập một khối lượng dữ liệu, thông tin lớn, mà còn phải vận dụng các phương pháp đánh giá tác động định tính và định lượng để xác định và dự đoán các tác động của từng phương án chính sách, thậm chí, phải tham vấn ý kiến của các bên liên quan. Do đó, khi vận dụng KTS vào đánh giá tác động chính sách sẽ giúp bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch và tiết kiệm thời gian, nhân lực trong xây dựng báo cáo giá tác động chính sách, nâng cao chất lượng của báo cáo đánh giá tác động chính sách và lựa chọn phương án chính sách tối ưu.

– Trong xây dựng chính sách cần lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và giải pháp thực hiện chính sách; tổng hợp, nghiên cứu, giải trình, tiếp thu các ý kiến góp ý. Việc áp dụng KTS vào việc lấy ý kiến góp ý và tổng hợp, tiếp thu và giải trình các ý kiến góp ý sẽ giúp quá trình này được tiếp hành nhanh hơn, phạm vi bao phủ rộng hơn, bảo đảm khách quan và dân chủ hơn.

Nâng cao chất lượng chính sách công nghiệp Việt Nam cho các nhà hoạch định chính sách cấp cao về các chiến lược công nghiệp.

Giải pháp ứng dụng các yếu tố của kỹ thuật số vào xây dựng chính sách ở Việt Nam

Một là, đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan HĐCS và các bên liên quan về CMCN 4.0 và những ứng dụng của nó vào xây dựng CSC nhằm nâng cao chất lượng của các chính sách đề xuất.

Hai là, thiết kế và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các nhà HĐCS về kiến thức và kỹ năng phân tích chính sách, về phân tích dữ liệu lớn, về ứng dụng vạn vật kết nối để thu hút sự tham gia của toàn xã hội vào quá trình xây dựng chính sách; về ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào thu thập, xử lý thông tin và phân tích chính sách.

Ba là, đẩy nhanh quá trình xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến 2025, hướng tới xây dựng chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về các ngành, lĩnh vực để tạo thuận lợi cho việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của các bộ, ngành, các cơ quan trong xây dựng chính sách.

Xây dựng chính sách là một giai đoạn của quy trình HĐCS – đây là giai đoạn xây dựng nội dung chính sách và quy định chất lượng chính sách trong đề nghị xây dựng VBQPPL. Khi xây dựng nội dung chính sách, các nhà HĐCS phải vận dụng tri thức và rất nhiều kỹ thuật khác nhau dựa trên tri thức liên ngành vào thu thập, xử lý và phân tích thông tin để phân tích vấn đề, thiết lập mục tiêu, xác định các giải pháp chính sách và đánh giá tác động của từng giải pháp chính sách.

Trong khi đó, các yếu tố của KTS đều có liên quan đến các hoạt động chính của xây dựng chính sách là: cung cấp, thu thập, trao đổi thông tin, dữ liệu (IoT và Big Data); xử lý thông tin và phân tích thông tin để giải quyết vấn đề (AI). Việc ứng dụng các yếu tố của KTS vào quá trình xây dựng chính sách sẽ giúp tiết kiệm thời gian, công sức và quan trọng hơn là giúp nâng cao chất lượng của các chính sách đề xuất, cung cấp cơ sở vững chắc (lập luận và bằng chứng) cho lựa chọn chính sách tối ưu.

Tuy nhiên, để có thể tận dụng được lợi thế của KTS trong xây dựng CSC, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp như: đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về CMCN 4.0; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng ứng dụng KTS vào phân tích chính sách cho các nhà HĐCS; đẩy nhanh xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số./.

Chú thích:
1. Trong bài viết này, văn bản chính sách là văn bản quy định nội dung chính sách, như luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định.
2. Cách mạng 4.0 là gì? Nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến Việt Nam?https://Blogchiasekienthuc.com, ngày 10/5/2019.
TS. Lê Văn Hòa
                                 Học viện Hành chính Quốc gia