TS. Lê Duy Dũng
TS. Phùng Quang Phát
TS. Đỗ Văn Trịnh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Dựa trên văn kiện của Đảng, số liệu đến năm 2024 và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định mô hình này kết hợp hài hòa cơ chế thị trường hiện đại với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cả hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội. Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đạt tăng trưởng GDP cao, giảm nghèo mạnh và nâng cao vị thế quốc tế. Tuy nhiên, thể chế, hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước và bất bình đẳng thu nhập vẫn còn hạn chế. Bài viết đề xuất giải pháp để bảo đảm thực hiện chính sách nhất quán và bền vững.
Từ khóa: Kinh tế thị trường; định hướng xã hội chủ nghĩa; chính sách kinh tế; hội nhập quốc tế; Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Kể từ công cuộc Đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986), mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập như một lựa chọn chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Khác với mô hình kinh tế thị trường thuần túy ở các nước tư bản chủ nghĩa, mô hình của Việt Nam kết hợp các yếu tố thị trường với sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước; đồng thời, đặt mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội lên hàng đầu. Bài viết làm rõ một số cơ sở lý luận của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, đánh giá thực tiễn triển khai chính sách ở Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện nhất quán và hiệu quả trong “kỷ nguyên vươn mình của đất nước”.
2. Cơ sở lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(1) Khái niệm và nguồn gốc mô hình.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế hỗn hợp, trong đó các quy luật của thị trường như cung – cầu, giá trị và cạnh tranh vận hành đầy đủ; đồng thời, Nhà nước định hướng phát triển dựa trên nguyên tắc và mục tiêu XHCN, bảo đảm “sự kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội”1.
Nguồn gốc lý luận của mô hình bắt nguồn từ việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện Việt Nam. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng luôn khẳng định: không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp mà cần phát triển kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước để huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội.
(2) Đặc trưng cơ bản của mô hình.
Một là, đa dạng hóa hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế gồm nhiều hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, tập thể, tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt như năng lượng, hạ tầng chiến lược, tài nguyên khoáng sản.
Hai là, vai trò điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN thể hiện ở việc Nhà nước định hướng, quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược phát triển, chính sách tài khóa – tiền tệ và điều tiết thị trường; không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhưng kiểm soát các lĩnh vực ảnh hưởng đến an ninh kinh tế, môi trường và phúc lợi xã hội2.
Ba là, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Không chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá, mô hình nhấn mạnh mục tiêu nâng cao đời sống cho Nhân dân, giảm nghèo bền vững, bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm cho người dân.
Bốn là, hội nhập quốc tế có chọn lọc. Việt Nam chủ động tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) nhưng đồng thời bảo vệ các ngành sản xuất chiến lược, duy trì an ninh lương thực và kinh tế3.
(3) So sánh với các mô hình khác.
Từ thực tiễn, so với kinh tế thị trường tự do ở các nước tư bản, mô hình của Việt Nam có mức độ can thiệp của Nhà nước cao hơn và mục tiêu công bằng xã hội rõ nét hơn. So với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình mới linh hoạt hơn, khuyến khích cạnh tranh và đổi mới sáng tạo, đồng thời khắc phục được tình trạng kém hiệu quả do bao cấp kéo dài4. Chẳng hạn, như: Trung Quốc cũng áp dụng mô hình tương tự, gọi là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc” nhưng có sự khác biệt trong mức độ mở cửa thị trường vốn, quản lý doanh nghiệp nhà nước và chiến lược phát triển công nghiệp.
(4) Cơ sở pháp lý và chính trị.
Điều 51 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại, hội nhập và giữ vững định hướng XHCN5.
3. Thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a. Thành tựu nổi bật
Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, được thể hiện qua một số nội dung chính sau:
(1) Tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Trong giai đoạn 2016 – 2019, GDP của Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 6,8%/năm, thuộc nhóm cao nhất khu vực Đông Nam Á. Dù chịu tác động mạnh của đại dịch Covid-19, năm 2020, tăng trưởng vẫn đạt 2,91%, nằm trong số ít quốc gia có GDP dương. Năm 2022, tăng trưởng phục hồi mạnh mẽ đạt 8,02% và năm 2023 đạt 5,05% do tác động suy giảm cầu toàn cầu nhưng vẫn cao hơn nhiều nền kinh tế lớn. GDP Việt Nam năm 2023 đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 35 thế giới, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD, gấp gần 5 lần so với năm 2005. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình trên 6%/năm trong hơn ba thập kỷ, đồng thời giữ vững ổn định chính trị – xã hội6.

(2) Xóa đói, giảm nghèo và cải thiện đời sống. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống còn 2,93% (năm 2023), trong đó vùng sâu, vùng xa ghi nhận sự cải thiện rõ rệt7. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt 0,703 năm 2022, xếp nhóm “phát triển cao” theo phân loại của UNDP8.
(3) Mở rộng hội nhập quốc tế. Việt Nam đã ký 16 hiệp định FTA, trong đó có những hiệp định thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)9. Kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 đạt khoảng 683 tỷ USD, gấp hơn 4 lần so với năm 201010.
b. Hạn chế và thách thức
Mặc dù đã đạt nhiều thành tựu, quá trình thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đối diện với những thách thức, như:
(1) Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ. Môi trường kinh doanh còn tồn tại rào cản pháp lý, thủ tục hành chính; khung pháp lý về thị trường quyền sử dụng đất, thị trường vốn, thị trường khoa học – công nghệ còn thiếu minh bạch.
(2) Vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao: Việt Nam đã ký 16 hiệp định FTA, trong đó có những hiệp định thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP)11. Kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 đạt khoảng 683 tỷ USD, gấp hơn 4 lần so với năm 201012.
(3) Khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Chỉ số Gini khoảng 0,38 – 0,39, phản ánh sự phân hóa thu nhập giữa các nhóm dân cư. Khoảng 20% dân số giàu nhất chiếm hơn 45% tổng thu nhập xã hội, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 6 – 7%13.
4. Giải pháp thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong tiến trình phát triển của đất nước, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chủ trương lớn, nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đây là mô hình kinh tế vừa bảo đảm các nguyên tắc thị trường hiện đại, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo cơ chế thị trường vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Thực tiễn đổi mới đất nước từ Đại hội VI (tháng 12/1986) đến nay cho thấy, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo nền tảng vững chắc cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, việc thực hiện nhất quán các chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN càng trở nên cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát triển lực lượng sản xuất và giữ vững mục tiêu, bản chất tốt đẹp của chế độ. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là giải pháp nền tảng, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế đặc thù, vừa tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường hiện đại, vừa bảo đảm mục tiêu XHCN với đặc trưng cơ bản là thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đây là con đường phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, được khẳng định qua nhiều kỳ Đại hội Đảng. Việc thực hiện nhất quán các chính sách này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ: tạo sự ổn định chính trị – xã hội, duy trì định hướng phát triển lâu dài, bền vững. Khắc phục những rủi ro, hệ lụy của kinh tế thị trường tự do thuần túy. Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đa dạng hóa sở hữu, tạo động lực cho tăng trưởng. Bảo đảm thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Vì vậy, để thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:
(1) Thực hiện đồng bộ, nhất quán chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Nền kinh tế nước ta hiện nay có nhiều hình thức sở hữu song hành tồn tại và phát triển, trong đó có sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước là: khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đối với các lĩnh vực then chốt, thiết yếu. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã theo phương thức hiện đại. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các thành phần kinh tế. Việc thực hiện tốt chủ trương này sẽ tạo điều kiện cho các nguồn lực xã hội được huy động và sử dụng hiệu quả, đóng góp cho tăng trưởng và ổn định xã hội.
(2) Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ hàng đầu. Đồng thời, quan hệ sản xuất cũng phải được điều chỉnh phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Biện pháp cụ thể gồm: Tập trung phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực, khoa học – công nghệ; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, cải cách thủ tục hành chính. Đồng thời, hoàn thiện chính sách về quyền sở hữu, quyền kinh doanh; điều chỉnh, hoàn thiện các quan hệ sản xuất về sở hữu, quản lý và phân phối trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự kết hợp hài hòa giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất là yếu tố bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và giữ vững định hướng XHCN.
(3) Khuyến khích phát triển các hình thức sở hữu hỗn hợp, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế sở hữu hỗn hợp, nhất là doanh nghiệp cổ phần, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hiện đại. Đây là loại hình kinh doanh linh hoạt, tận dụng được ưu thế về vốn, công nghệ, quản trị của nhiều chủ thể. Chính sách của Nhà nước là: khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp. Tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực mà tư nhân có thể tham gia. Tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực trọng yếu. Thúc đẩy xã hội hóa sản xuất – kinh doanh và sở hữu, tạo tính minh bạch, cạnh tranh lành mạnh. Việc phát triển sở hữu hỗn hợp còn giúp hạn chế độc quyền, nâng cao năng lực quản trị và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
(4) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước là đặc biệt quan trọng, bảo đảm định hướng phát triển, ổn định xã hội và xử lý các mặt trái của thị trường. Theo đó, Nhà nước cần: tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại, hội nhập; ban hành kịp thời, đồng bộ các chính sách phát triển phù hợp thực tiễn; kiểm soát, điều tiết thị trường, bảo vệ cạnh tranh công bằng; tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, bảo đảm an ninh kinh tế. Việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước sẽ bảo đảm nền kinh tế vận hành lành mạnh, bền vững và đúng định hướng.
(5) Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, việc giữ vững định hướng XHCN càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là nguyên tắc bảo đảm cho sự phát triển ổn định, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Nhà nước cần: Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững. Bảo đảm công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công, phúc lợi xã hội. Kiểm soát bất bình đẳng thu nhập, hạn chế phân hóa giàu nghèo. Xây dựng môi trường sống lành mạnh, bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại là yêu cầu xuyên suốt, bảo đảm sự phát triển bền vững và vì con người.
5. Kết luận
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam là kết quả của quá trình vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện cụ thể của đất nước. Sau gần bốn thập kỷ thực hiện, tuy không tránh khỏi những khó khăn nhất định cần vượt qua nhưng mô hình này cơ bản đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả. Trong bối cảnh mới, cần thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là con đường phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm dân tộc, không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, quyết định thành công của công cuộc đổi mới và phát triển bền vững đất nước.
Chú thích:
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 325.
2. World Bank (2022). Vietnam Public Expenditure Review. World Bank, Washington, DC, tr. 47.
3. IMF (2023). Vietnam 2023 Article IV Consultation – Country Report No. 23/292. International Monetary Fund, Washington, DC, tr. 14.
4. Trần Văn Phòng (2020). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 112.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 137
6, 7, 13. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám thống kê 2023. H. NXB Thống kê, tr. 55 – 57, 190, 185 – 186.
8. UNDP (2023). Human Development Report 2023/24. United Nations Development Programme, New York, tr. 272.
9, 11. Bộ Công Thương (2024). Báo cáo xuất, nhập khẩu Việt Nam 2023. H. NXB Công Thương, tr. 25, 15.