Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay 

ThS. Hoàng Việt Hưng
Trường Chính trị Hoàng Đình Giong, tỉnh Cao Bằng

(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số giữ vai trò then chốt trong giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên khi tạo điều kiện đổi mới phương pháp giảng dạy, mở rộng khả năng tiếp cận tri thức và nâng cao hiệu quả quản lý, đánh giá học tập. Giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay đã có bước tiến quan trọng với việc ứng dụng công nghệ vào giảng dạy song vẫn còn hạn chế về hạ tầng, học liệu số và năng lực số của đội ngũ giảng viên, học viên. Bài viết nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam.

Từ khóa: Giáo dục lý luận chính trị; cán bộ, đảng viên; chuyển đổi số; phương pháp giảng dạy; tiếp cận tri thức.

1. Đặt vấn đề

Giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ trọng yếu nhằm củng cố bản lĩnh chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng, giữ vững niềm tin và phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của mỗi đảng viên trong sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1; “Không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm”2

Trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục lý luận chính trị trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Công nghệ số tạo ra nhiều cơ hội, như: đa dạng hóa nguồn học liệu, tăng tính trực quan, mở rộng không gian học tập và nâng cao khả năng tương tác. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt là vấn đề bảo đảm tính chính thống của thông tin, phòng ngừa sự xâm nhập của các luồng quan điểm sai trái, thù địch cũng như khắc phục tình trạng chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nhóm cán bộ, đảng viên. Trước yêu cầu phát triển mới của đất nước và sự tác động mạnh mẽ của môi trường số, việc nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

2. Thực trạng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay 

Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số là quá trình đổi mới, cải tiến và phát triển toàn diện công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm bảo đảm tính khoa học, chính thống, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong điều kiện ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số. Đó còn là quá trình tích hợp giữa mục tiêu chính trị – tư tưởng với thành tựu công nghệ số, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh vững vàng, trí tuệ sắc bén và khả năng thích ứng cao trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. 

Những năm qua, công tác giảng dạy lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, luôn được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các trường chính trị đặc biệt quan tâm bởi chuyển đổi số giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Việc ứng dụng công nghệ – thông tin, mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến giúp giảng viên truyền đạt kiến thức linh hoạt, sinh động, đồng thời tạo môi trường học tập mở, tăng cường tính tương tác, khuyến khích người học trao đổi và phản biện. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ sau đào tạo không chỉ nắm vững lý luận mà còn có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý, góp phần hình thành lớp cán bộ hiện đại, năng động, có tư duy đổi mới và khả năng thích ứng cao trước bối cảnh hội nhập quốc tế.

Trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở Việt Nam có nhiều điểm nổi bật đáng khích lệ, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả so với phương thức truyền thống. Cụ thể:

Một là, đa dạng hóa hình thức giáo dục, từ lớp học trực tiếp sang đào tạo trực tuyến, học tập kết hợp (blended learning), mô hình lớp học đảo ngược… Qua đó, mở rộng không gian, thời gian học tập, tạo sự linh hoạt, thuận lợi cho cán bộ, đảng viên ở nhiều vùng miền khác nhau. Ví dụ, tại Trường Chính trị Hoàng Đình Giong, tỉnh Cao Bằng: “đã thực hiện chuyển đổi từ hình thức trực tiếp sang hình thức trực tuyến một số lớp đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm kế hoạch mở lớp không bị đứt đoạn trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, như: lớp trung cấp lý luận chính trị, lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, lớp bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã”3.

Hai là, nhiều trường chính trị đã từng bước ban hành quy chế đào tạo trực tuyến nhằm bảo đảm tính nề nếp trong hoạt động dạy và học. Đến năm 2025, phần lớn các cơ sở này đã triển khai hình thức giảng dạy trực tuyến khi cần thiết, từ các lớp trung cấp lý luận chính trị đến các khóa bồi dưỡng ngắn hạn. Mặc dù, việc áp dụng hệ thống quản lý học tập (LMS) chưa thật sự thống nhất, song nhiều trường đã quan tâm đầu tư hoặc khai thác hiệu quả các nền tảng sẵn có để quản lý và hỗ trợ học tập. Đây được xem là cơ sở quan trọng để hình thành mô hình lớp học mở, linh hoạt về thời gian và không gian, giúp học viên có thể tiếp cận nội dung giảng dạy mọi lúc, mọi nơi một cách thuận lợi.

Ba là, hệ thống học liệu số hóa, kho dữ liệu điện tử, thư viện số và các nền tảng trực tuyến giúp người học tiếp cận nhanh chóng, toàn diện, chính thống các văn kiện, nghị quyết, tài liệu lý luận chính trị của Đảng, đồng thời hạn chế sự sai lệch thông tin từ các nguồn không chính thống. Tại Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ, tỉnh Lạng Sơn, đến nay: “trên 90% giáo án đã được chuyển sang hình thức điện tử và phê duyệt qua hệ thống quản lý văn bản VNPT Eoffice. 100% giảng viên sử dụng giáo án điện tử PowerPoint, nhiều giảng viên đã biết tích hợp phần mềm đa phương tiện để tăng tính sinh động, trực quan trong bài giảng”4.

Bốn là, sử dụng các ứng dụng cơ bản, như: Word, Excel và các phần mềm hỗ trợ trong công việc, như: các công cụ kiểm tra chính tả (Google Docs, Tummo Spell), phần mềm chuyển đổi định dạng giữa PDF, ảnh và Word cũng như các ứng dụng lưu trữ, chia sẻ tài liệu trên Google Drive… Ngoài ra, giảng viên sử dụng chuyển đổi số trong giảng dạy linh hoạt trong việc thiết lập, chia sẻ và chỉnh sửa tài liệu, bảng tính, bài thuyết trình thông qua Google Docs, Google Sheets và Google Slides, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và nghiên cứu5.

Năm là, ứng dụng công nghệ số tạo ra tính trực quan, sinh động trong giảng dạy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, thông qua bài giảng điện tử, video, infographic, mô phỏng 3D góp phần tăng hứng thú, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong tiếp thu tri thức. Tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vừa khánh thành mô hình quản trị Học viện thông minh và khai trương nền tảng giáo dục số phục vụ cán bộ, giảng viên toàn hệ thống vào tháng 4/20256. Cùng với đó, một số trường chính trị đã tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giảng dạy lý luận chính trị, sử dụng ChatGPT trong việc khái quát những nội dung trọng tâm của bài giảng và làm rõ các khái niệm thuộc các môn lý luận chính trị. Chuyển đổi số giúp tăng cường khả năng tương tác hai chiều giữa giảng viên và học viên thông qua diễn đàn trực tuyến, lớp học ảo, khảo sát nhanh, góp phần nâng cao hiệu quả trao đổi, thảo luận và bồi dưỡng tư duy phản biện.

Sáu là, nhờ ứng dụng công nghệ quản lý học tập (LMS) và phân tích dữ liệu, cơ quan quản lý có thể theo dõi, đánh giá chính xác quá trình học tập, từ đó đưa ra giải pháp kịp thời để nâng cao chất lượng. Ưu điểm nổi bật của giáo dục lý luận chính trị trong bối cảnh chuyển đổi số là tính mở, tính linh hoạt, tính hiệu quả và khả năng lan tỏa sâu rộng, qua đó góp phần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, tăng cường sức chiến đấu và sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình mới.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở Việt Nam tuy đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế và tồn tại, như: 

(1) Hạ tầng công nghệ và nguồn lực kỹ thuật, sự chênh lệch giữa các địa phương, đơn vị dẫn đến tình trạng chưa đồng bộ trong triển khai đào tạo trực tuyến; ở nhiều nơi, thiết bị, đường truyền còn yếu kém, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. 

(2) Năng lực số của đội ngũ giảng viên và học viên, không ít cán bộ, đảng viên, đặc biệt ở lứa tuổi trung niên và lớn tuổi còn hạn chế trong việc sử dụng thành thạo các nền tảng, phần mềm số khiến quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

(3) Phương pháp giảng dạy và học tập, nhiều giảng viên chưa thực sự đổi mới, còn nặng tính truyền thụ một chiều, ít chú trọng đến phát huy tính tương tác, tư duy phản biện và sự chủ động của học viên trong môi trường số. 

(4) Nguồn học liệu số, mặc dù đã có những bước tiến trong việc số hóa tài liệu, văn kiện song hệ thống học liệu vẫn còn phân tán, thiếu tính hệ thống, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu học tập đa dạng và chuyên sâu. 

(5) Môi trường mạng tiềm ẩn nhiều thông tin sai trái, quan điểm thù địch, nếu không có sự định hướng kịp thời sẽ ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận lý luận chính trị, làm nảy sinh tâm lý hoài nghi, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. 

(6) Cơ chế đánh giá, kiểm tra kết quả học tập trong môi trường số chưa thật sự khoa học, nhiều nơi còn hình thức, chưa phản ánh đúng năng lực, dẫn đến hạn chế trong việc nâng cao chất lượng thực chất.

Những hạn chế, thách thức trên bắt nguồn từ cả yếu tố khách quan (hạ tầng công nghệ, thách thức từ môi trường số) và yếu tố chủ quan (trình độ số, phương pháp sư phạm, ý thức học tập), đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ để công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên thực sự thích ứng và phát huy hiệu quả trong kỷ nguyên chuyển đổi số.

3. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số

Thứ nhất, tăng cường đầu tư hạ tầng công nghệ – thông tin tại các cơ sở đào tạo, bảo đảm hệ thống đường truyền, thiết bị, phần mềm dạy – học trực tuyến hoạt động ổn định, an toàn, đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện đại. Cần ưu tiên nâng cấp hệ thống đường truyền iternet tốc độ cao, bảo đảm ổn định và an toàn; trang bị đầy đủ máy tính, thiết bị trình chiếu, phòng học thông minh và các phần mềm dạy – học trực tuyến hiện đại. Triển khai các giải pháp bảo mật dữ liệu, phòng, chống tấn công mạng, bảo đảm an toàn thông tin trong quá trình giảng dạy và học tập trực tuyến. Việc đầu tư hạ tầng số không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ trong giảng dạy lý luận chính trị mà còn góp phần nâng cao tính linh hoạt, hiệu quả và tính bền vững của hoạt động đào tạo, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ chuyển đổi số.

Thứ hai, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ giảng viên và học viên thông qua các khóa tập huấn, đào tạo chuyên đề nhằm giúp giảng viên thành thạo trong thiết kế bài giảng số, sử dụng hệ thống quản lý học tập (LMS), ứng dụng AI, đồng thời hỗ trợ cán bộ, đảng viên nâng cao kỹ năng khai thác thông tin và tương tác trong môi trường số. Xây dựng chương trình đào tạo, tập huấn chuyên sâuvề kỹ năng số cho giảng viên, tập trung vào việc thiết kế bài giảng điện tử, khai thác hiệu quả hệ thống quản lý học tập (LMS), sử dụng các phần mềm trình chiếu hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công cụ trực quan hóa dữ liệu (infographic, video, mô phỏng 3D) để nâng cao tính hấp dẫn của bài giảng. Tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn cho học viên, giúp họ làm quen với cách sử dụng các nền tảng học tập trực tuyến, kỹ năng tìm kiếm, xử lý và phân tích thông tin trong môi trường số, từ đó nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu. Khuyến khích tinh thần học tập suốt đời trong môi trường số, xây dựng văn hóa số trong giảng dạy và học tập lý luận chính trị, góp phần hình thành đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư duy hiện đại, năng lực công nghệ, khả năng thích ứng cao với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy theo hướng gắn lý luận với thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tận dụng ưu thế của công nghệ số để tổ chức lớp học đảo ngược, thảo luận nhóm trực tuyến, học tập tình huống, qua đó khuyến khích sự chủ động, tư duy phản biện và khả năng vận dụng thực tiễn của học viên. Về nội dung, cần cập nhật kịp thời các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời lồng ghép các vấn đề thực tiễn, như: chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống… nhằm tăng tính thời sự, gắn kết lý luận với thực tiễn. Về phương pháp, áp dụng các hình thức dạy học hiện đại, như: lớp học đảo ngược, thảo luận nhóm trực tuyến, học tập theo tình huống, mô phỏng tình huống chính trị – xã hội, kết hợp đa phương tiện (video, infographic, bản đồ tư duy số) để tạo sự hấp dẫn, kích thích tư duy phản biện và khả năng vận dụng thực tiễn của học viên.

Thứ tư, xây dựng hệ thống học liệu số thống nhất, chính thống và cập nhật thường xuyên, bao gồm thư viện điện tử các văn kiện của Đảng, giáo trình, tài liệu tham khảo, các bài giảng điện tử, video, infographic nhằm bảo đảm người học được tiếp cận nguồn tri thức chuẩn xác, kịp thời và hấp dẫn. Tập trung số hóa toàn bộ giáo trình, tài liệu giảng dạy, văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời chuẩn hóa thành các bộ học liệu điện tử thống nhất, bảo đảm tính chính thống và khoa học. Hệ thống học liệu số phải được quản lý tập trung trên các nền tảng LMS hoặc cổng thông tin chuyên biệt, bảo đảm tính an toàn, bảo mật, tránh tình trạng phân tán và thiếu đồng bộ giữa các cơ sở đào tạo. Đặc biệt, cần có cơ chế cập nhật thường xuyên để học liệu luôn bắt kịp sự thay đổi của thực tiễn, các nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng và những vấn đề nóng của đời sống chính trị – xã hội.

Thứ năm, nâng cao công tác định hướng tư tưởng, quản lý thông tin trên không gian mạng, kết hợp giữa biện pháp kỹ thuật và giải pháp chính trị – tư tưởng để kịp thời phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, đồng thời củng cố niềm tin, thái độ học tập tích cực của cán bộ, đảng viên. Đầu tư các giải pháp kỹ thuật hiện đại, như: hệ thống lọc, cảnh báo, phân tích dữ liệu lớn (Big Data), AI để nhận diện sớm các quan điểm thù địch, xuyên tạc, qua đó nâng cao năng lực quản lý, kiểm soát thông tin trong môi trường số. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tuyên giáo, cơ quan quản lý thông tin, truyền thông và các cơ sở đào tạo của Đảng trong việc giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời các luồng thông tin xấu độc, sai lệch. Các trường chính trị cần chủ động xây dựng không gian học tập số an toàn, lành mạnh, cung cấp nguồn học liệu chính thống, dễ tiếp cận, hấp dẫn nhằm định hướng nhận thức và củng cố niềm tin của người học.

Thứ sáu, cần đổi mới cơ chế kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong môi trường số, kết hợp giữa trắc nghiệm trực tuyến, thảo luận, viết tiểu luận, sản phẩm số, qua đó phản ánh đúng năng lực, tạo động lực để người học tự giác rèn luyện, nâng cao trình độ. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá toàn diện, kết hợp giữa kiến thức lý thuyết, kỹ năng vận dụng thực tiễn và năng lực tư duy phản biện, thay vì chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ nội dung. Việc kiểm tra cần đa dạng hóa hình thức, bao gồm thi trắc nghiệm trực tuyến, viết tiểu luận số, thuyết trình qua video, tham gia thảo luận trực tuyến, xử lý tình huống thực tế, qua đó đánh giá được cả chiều rộng và chiều sâu trong nhận thức của học viên. Phát huy vai trò của đánh giá thường xuyên và phản hồi hai chiều để học viên nhận được góp ý kịp thời, đồng thời khuyến khích sự tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, qua đó tạo môi trường học tập tích cực, chủ động.

4. Kết luận

Chuyển đổi số mở ra nhiều cơ hội để đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy và học góp phần lan tỏa tri thức chính trị một cách nhanh chóng, rộng rãi và hiệu quả. Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay là nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa lâu dài nhằm củng cố bản lĩnh, niềm tin và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi, đồng thời gắn liền với yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 289.

2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 233, 234.

3, 5. Một số kết quả thực hiện chuyển đổi số tại Trường Chính trị Hoàng Đình Giong, tỉnh Cao Bằng. https://truongchinhtri.caobang.gov.vn/index.php/news/Nghien-cuu-khoa-hoc/Mot-so-ket-qua-thuc-hien-chuyen-doi-so-tai-Truong-Chinh-tri-Hoang-Dinh-Giong-tinh-Cao-Bang-1201/

4. Ứng dụng chuyển đổi số trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế ở Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ. http://truongchinhtrils.vn/node/1782.

6. Khai trương mô hình quản trị thông minh tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. https://baotintuc.vn/xa-hoi/khai-truong-mo-hinh-quan-tri-thong-minh-tai-hoc-vien-chinh-tri-quoc-gia-ho-chi-minh-20250403183009976.htm.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2018). Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/12/12/nang-cao-trinh-do-ly-luan-chinh-tri-cua-can-bo-dang-vien-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-trong-ky-nguyen-moi/