ThS. Lê Thị Hồng Hải
Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Vị thành niên là lứa tuổi có nhiều thay đổi về tâm sinh lý và cũng là giai đoạn các em muốn khẳng định mình trong khi vẫn chưa có nhiều trải nghiệm cuộc sống và hiểu biết xã hội. Vì vậy, trẻ vị thành niên dễ bị tác động bởi môi trường, hoàn cảnh và các mối quan hệ xung quanh. Bài viết bàn về những ảnh hưởng của bạn bè đồng trang lứa tới trẻ vị thành niên trong học tập và hành vi. Sự ảnh hưởng của bạn bè đến trẻ vị thành niên được xem xét ở hai chiều cạnh tích cực và tiêu cực, từ đó gợi ý một số vấn đề cần quan tâm đối với gia đình, nhà trường và xã hội nhằm giúp trẻ vị thành niên có được các mối quan hệ bạn bè tích cực và bền vững1.
Từ khóa: Vị thành niên; quan hệ đồng trang lứa; áp lực bạn bè; ảnh hưởng của bạn bè; hành vi rủi ro.
1. Đặt vấn đề
Trong cuộc sống của con người, tình bạn đóng vai trò then chốt và luôn có cùng sự đồng hành, khích lệ, hỗ trợ về mặt tinh thần, thể chất cũng như cảm xúc và sự thân thiết. Mặc dù mối quan hệ bạn bè có thể không lâu dài và mãnh liệt như mối quan hệ gia đình nhưng có xu hướng bình đẳng hơn. Các nhà lý thuyết phát triển đã gợi ý rằng, sự phát triển của các mối quan hệ bạn bè là quan trọng để phát triển năng lực xã hội và ý thức về công bằng. Bạn bè đồng trang lứa mang đến cơ hội hòa nhập xã hội, các mối quan hệ và cảm giác thuộc về, tách biệt khỏi gia đình – một kiểu độc lập như một con người khác biệt; đặc biệt khi trẻ phát triển và dành nhiều thời gian với bạn bè hơn gia đình.
Những năm gần đây, sự phát triển của phương tiện truyền thông điện tử đã mang đến nhiều cơ hội và bối cảnh hơn cho các mối quan hệ bạn bè. Tin nhắn văn bản, e-mail, trò chuyện trực tuyến, trò chơi điện tử tương tác và mạng xã hội (Facebook, Tiktok, Instagram, Twitter,…) đã làm thay đổi bản chất của các mối quan hệ bạn bè và mở rộng đáng kể nhóm bạn bè ngoài những người mà trẻ vị thành niên gặp trực tiếp. Ngoài ra, mạng xã hội còn tăng cơ hội tương tác với bạn bè bất cứ lúc nào.
Tuổi vị thành niên cũng là giai đoạn phát triển được đánh dấu bằng sự ảnh hưởng to lớn của bạn bè lên thái độ, niềm tin, giá trị và hành vi (Wang và cộng sự, 2018)2. Đối với trẻ em, có mối liên hệ giữa khả năng kết bạn trong thời thơ ấu và sự điều chỉnh về mặt xã hội cũng như cảm xúc trong cuộc sống sau này. Ở tuổi vị thành niên, quan hệ bạn bè của trẻ đóng vai trò quan trọng (Gottman và Parker(1987)3, tình bạn đem lại cho trẻ vị thành niên một đối tác thân quen, luôn sẵn sàng dành thời gian ở bên họ và cùng họ tham gia các hoạt động; mang đến những thông tin thú vị, sự hào hứng và sự thích thú; lànguồn an ủi, sự trợ giúp và hỗ trợ. Vì vậy, bạn hay nhóm bạn có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cựctới trẻ vị thành niên tùy thuộc vào việc trẻ chơi với ai và chơi như thế nào. Việc trẻ vị thành niên chơi với ai, chọn ai làm bạn, tương tác với bạn như thế nào là những vấn đề mà xã hội nói chung và gia đìnhnói riêng cần quan tâm để giúp trẻ có những lựa chọn đúng đắn, có cuộc sống tốt hơn trong quá trình phát triển và trưởng thành.
2. Ảnh hưởng của bạn bè đến trẻ vị thành niên
Bạn bè đồng trang lứa và việc tạo dựng tình bạn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của vị thành niên và họ dành thời gian với bạn bè trong giai đoạn này nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào của đời người (Witkow & Fuligni, 2010)4. Trong quá trình chọn bạn hoặc nhóm bạn, vị thành niên đang chọn môi trường trong đó họ học hỏi các kỹ năng, họ ảnh hưởng đến người khác và bị người khác gây ảnh hưởng. Bạn bè thường đóng vai trò là hình mẫu bằng cách thiết lập các chuẩn mực cho các hành vi cụ thể bao gồm việc khuyến khích hoặc ngăn cản vị thành niên thực hiện những hành vi cụ thể, chẳng hạn như những hành vi lệch chuẩn hoặc liên quan tới thành tích học tập. Liên quan đến lý thuyết học tập xã hội (Bandura, 1977)5 cho rằng, học sinh học được những hành vi cụ thể thông qua việc quan sát và bắt chước bạn bè, cũng như thông qua việc nhận được phần thưởng hoặc hình phạt xã hội (sự củng cố). Theo đó, bạn bè thường trở nên giống nhau hơn theo thời gian về mặt thành tích học tập cũng như về các hành vi.
(1) Ảnh hưởng của bạn bè trong học tập.
Trong thời niên thiếu, khi vị thành niên dành nhiều thời gian hơn cho bạn bè cùng trang lứa, các chuẩn mực và đặc điểm của mạng lưới bạn bè ngày càng trở thành tác nhân xã hội hóa quan trọng nhất là trong học tập. Do đó, các chuẩn mực học tập của một nhóm bạn bè có thể có ảnh hưởng to lớn đến sự tham gia học tập ở trường, đến động cơ và thành tích học tập của mỗi cá nhân (Laninga-Wijnen, Ryan, Harakeh, Shih, & Vollebergh, 2016)6. Các nhà nghiên cứu thường đồng ý rằng thanh thiếu niên trong cùng một mạng lưới bạn bè có xu hướng giống nhau nhiều về kết quả học tập và hành vi học tập (Rambaran và cộng sự, 2017)7. Sự tương đồng giữa các bạn cùng trang lứa này có thể nảy sinh từ việc vịthành niên lựa chọn những người bạn đồng trang lứa có giá trị học tập và hành vi tương tự và/hoặc từ việc vị thành niên dần trở nên giống bạn bè hơn theo thời gian (Wang, 2018)8.
Áp lực từ bạn bè có thể đóng vai trò như một chất xúc tác cho thành tích học tập. Một nghiên cứu của Wentzel (1998)9 cho thấy, những học sinh kết giao với bạn bè có động lực học tập thường có xu hướng nâng cao thành tích học tập của bản thân. Ảnh hưởng tích cực này tạo ra một môi trường nơi những khát vọng học tập được chia sẻ và nuôi dưỡng, thúc đẩy văn hóa thành tích. Khi học sinh chứng kiến bạn bè phấn đấu đạt thành tích xuất sắc, các em sẽ có xu hướng đặt ra những mục tiêu học tập cao hơn cho bản thân, dẫn đến sự nâng cao thành tích và động lực học tập chung.
Theo Gremmen và cộng sự (2017)10, sự giống nhau về thành tích học tập dường như tạo điều kiện thuận lợi cho tình bạn, vì học sinh đạt thành tích thấp cũng như thành tích cao thể hiện sự hấp dẫn lẫn nhau trong xu hướng chọn nhau làm bạn bè; học sinh thường đạt điểm cao hơn khi có bạn bè đạt thành tích cao. Do đó, bạn bè có thể ảnh hưởng đến việc nâng cao điểm số, thành tích học tập của vị thành niên. Bằng cách này, hành vi học tập và động lực của các bạn xung quanh, chẳng hạn như thông qua việc ghi chép và chú ý nghe giảng, có thể ảnh hưởng một cách vô thức hoặc có ý thức đến hành vi của vị thành niên.
Crosnoe và cộng sự (2003)11 cũng chỉ ra thực tế là bạn bè chia sẻ thông tin và động viên, khuyến khích nhau tham gia vào việc học tập. Ngoài ra, những học sinh đạt thành tích thấp có thể có động lực để đạt thành tích tốt hơn vì có nguy cơ không đậu vào cuối năm và sau đó mất bạn bè trong lớp và mất liên lạc thường xuyên với bạn bè.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực từ bạn bè đối với việc học tập thì bạn bè có thể cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập, dẫn đến việc học tập kém đi nếu các em chơi với nhóm bạn không coi trọng việc học. Ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè có thể khuyến khích học sinh có thái độ coi thường giáo dục, coi thành tích học tập không quan trọng bằng địa vị xã hội trong nhóm bạn và từ đó mất đi cơ hội trong tương lai.
Trong môi trường giáo dục, tác động tiêu cực từ bạn bè có thể biểu hiện theo nhiều cách khác nhau, bao gồm trốn học và không tham gia các hoạt động ở trường. Sự tách biệt này có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn của việc học kém, trong đó kết quả học tập kém củng cố những mối quan hệ tiêu cực với bạn bè, khiến học sinh xa rời mục tiêu học tập của mình. Đôi khi trẻ thực hiện các hành vi lệch chuẩn để tìm kiếm sự kết nối với nhóm bạn và mong muốn được chấp nhận và các hành vi lệch chuẩn trong học tậpthường là trốn học, gian lận trong thi cử, không làm bài tập được giao (Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2023)12, còn có các hành vi lệch chuẩn, trốn học, quay cóp, nói tục, nói dối thầy cô và cha mẹ, thậm chí bạo lực, kỳ thị học đường. Việc dành thời gian với bạn bè và tham gia vào các hành vi này có thể khiến vị thành niên bỏ bê học tập, chẳng hạn như không làm bài tập về nhà, bỏ tiết, trốn học.
Ngược lại, việc có những người bạn tập trung vào thành tích học tập có thể bảo vệ vị thành niên trước các hành vi rủi ro vì họ dành nhiều thời gian cho việc học sẽ khiến vị thành niên ít có cơ hội thực hiện các hành vi rủi ro. Do đó, hành vi rủi ro của bạn bè có thể ảnh hưởng tiêu cực đến thành tích học tập của vị thành niên, và ngược lại, thành tích học tập của bạn bè có thể bảo vệ vị thành niên khỏi việc tham gia vào các hành vi rủi ro.
(2) Ảnh hưởng của bạn bè đến các hành vi cá nhân (đặc biệt là hành vi lệch chuẩn hoặc các hành vi nguy cơ/rủi ro).
Tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển được đặc trưng bởi mong muốn “hòa nhập” với các bạn cùng trang lứa. Do đó, vị thành niên thường dành thời gian với những người bạn cùng trang lứa có cùng quan điểm giá trị sống và có hành vi tương tự. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các nhóm bạn bè thường thể hiện mức độ hành vi lệch chuẩn tương tự nhau và việc thường xuyên tiếp xúc hoặc tập hợp những bạn bè có hành vi lệch chuẩn vào cùng một môi trường có thể làm trầm trọng thêm các hành vi lệch chuẩn của mỗi thành viên. Việc tìm kiếm sự chấp thuận thông qua việc đáp ứng các hành vi được bạn bè đồng trang lứa chấp nhận có thể ảnh hưởng đến các hành vi rủi ro vì bạn bè cũng là người tạo cơ hội cho các hành vi rủi ro (Osgood và cộng sự, 2015)13.
Ngoài ra, bạn bè có thể lôi kéo thanh thiếu niên vào các hành vi rủi ro vì tuổi vị thành niên là giai đoạn nhạy cảm cho sự khởi đầu của các hành vi nguy cơ, chẳng hạn như phạm pháp và sử dụng chất kích thích (Steinberg, 2007)14. Hành vi phạm pháp và thử nghiệm rượu là những yếu tố nguy cơ nổi bật ở giai đoạn đầu tuổi vị thành niên và được coi là chuẩn mực chứng tỏ sự trưởng thành. Những vị thành niên có hành vi mạo hiểm được bạn bè đồng trang lứa khen thưởng và đạt được địa vị cao trong nhóm bạn bè. Các nghiên cứu trước đây đã tìm thấy mối liên hệ giữa sự lựa chọn tình bạn và ảnh hưởng củabạn bè đến việc sử dụng rượu và hành vi phạm pháp của thanh thiếu niên. Những kết quả này chỉ ra, học sinh thường chọn bạn dựa trên sự tương đồng về hành vi rủi ro cũng như ngày càng trở nên giống nhau hơn theo thời gian.
Những thanh thiếu niên có hành vi rủi ro có thể thích kết bạn với những bạn bè cũng phản ứng trái với chuẩn mực của người lớn và chia sẻ cùng những giá trị và nỗi thất vọng xuất hiện trong giai đoạn trưởng thành. Các hành vi khác nhau có thể tạo thành một tiểu văn hóa với các chuẩn mực rõ ràng về hành vi chấp nhận hoặc không chấp nhận. Vì trẻ vị thành niên thường có nhu cầu được xã hội chấp nhận và tránh bị xã hội ruồng bỏ, các em điều chỉnh hành vi của mình theo hành vi của bạn bè để được những người mà các em coi trọng và gần gũi đánh giá cao.
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên hệ giữa việc có các nhóm bạn lệch chuẩn và việc có hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên. Vị thành niên có giao du với các nhóm bạn lệch chuẩn sẽ có nguy cơ thực hiện các hành vi lệch chuẩn cao hơn nhóm vị thành niên không có hoặc ít khi có mối liên hệ này. Hành vi không tuân thủ chuẩn mực xã hội hay còn gọi là hành vi lệch chuẩn của vị thành niên có thể diễn ra ở nhiều lĩnh vực với những mức rủi ro, nguy cơ khác nhau, như: uống rượu/bia, sử dụng chất kích thích, hút thuốc, quan hệ tình dục sớm và không an toàn, mang thai sớm, nói tục chửi bậy …
Mặc dù ảnh hưởng của bạn bè thường gắn liền với những hậu quả tiêu cực, nhưng tiềm năng nuôi dưỡng hành vi hướng thiện của nó không nên bị bỏ qua. Ảnh hưởng này không chỉ giới hạn ở hành vi cá nhân mà còn có thể nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm trong các nhóm bạn bè. Thông qua việc khuyến khích lòng vị tha, thành tích học tập và lựa chọn lối sống lành mạnh, ảnh hưởng tích cực từ bạn bè có thể tác động đáng kể đến hành vi và động lực vì cộng đồng của thanh thiếu niên.
Việc nhấn mạnh những khía cạnh tích cực của áp lực bạn bè có thể dẫn đến các chiến lược hiệu quả hơn để hướng dẫn thanh thiếu niên đến những hành vi có lợi, từ đó góp phần xây dựng một cộng đồng/xã hội lành mạnh và gắn kết hơn. Một nghiên cứu do Johnson & Johnson thực hiện (2017)15 đã xem xét một chương trình cố vấn ở trường trung học, nơi học sinh được khuyến khích hỗ trợ lẫn nhau về mặt học tập và xã hội. Mô hình cố vấn này nhấn mạnh cách tương tác tích cực giữa bạn bè có thể dẫn đến lòng tự trọng và động lực được nâng cao, củng cố quan điểm rằng áp lực từ bạn bè có thể mang lại lợi ích khi hướng đến các mục tiêu mang tính xây dựng.
3. Một số vấn đề cần quan tâm
Sự ảnh hưởng của bạn bè trong việc định hình các hành vi, các giá trị sống diễn ra theo cả hai chiều tích cực hoặc tiêu cực tuỳ vào đặc điểm của nhóm bạn hay mạng lưới bạn bè của vị thành niên. Các nghiên cứu đều chỉ rõ vị thành niên dành thời gian cho bạn bè nhiều hơn cho gia đình, cha mẹ, vì vậy,các em dễ bị ảnh hưởng từ bạn bè. Ngoài những ảnh hưởng tiêu cực đặc biệt đối với các hành vi lệch chuẩn của vị thành niên, bạn bè cũng có những ảnh hưởng tích cực nếu như các em chơi với nhóm bạn có những hành vi tích cực. Điều này thể hiện khá rõ trong học tập và trong việc phòng tránh các hành vi rủi ro.
Để phát huy tính tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè đối với vị thành niên, điều quan trọng là giúp các em trong việc “chọn bạn mà chơi”. Vì vậy, cần quan tâm đến việc kết bạn, lựa chọn bạn bè chơi cùng của vị thành niên để có các định hướng đúng đắn cho các em ngay từ khi bắt đầu chọn bạn. Để giúp các em xây dựng được mối quan hệ bạn bè tốt đẹp, lành mạnh, bền vững rất cần sự phối hợp của cả gia đình, nhà trường và xã hội.
Một là, về phía gia đình. Các yếu tố gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình các ảnh hưởng từ bạn bè đến vị thành niên. Sự tham gia của cha mẹ và các phương pháp nuôi dạy con tích cực có thể giảm thiểu tác động của áp lực bạn bè bằng cách củng cố lòng tự trọng và thúc đẩy tư duy phản biện. Ngược lại, những gia đình có đặc điểm là sự thờ ơ hoặc cách nuôi dạy con cái độc đoán có thể khiến thanh thiếu niên dễ bị ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè hơn, vì chúng có thể tìm kiếm sự chấp nhận từ bạn bè để lấp đầy những khoảng trống cảm xúc trong gia đình.
Các bậc cha mẹ và các bậc lớn tuổi nên để cho tình cảm của các em được phát triển tự nhiên, đồngthời nên tôn trọng và tin tưởng con em mình. Các bậc phụ huynh luôn sát sao, quan tâm, động viên con em mình. Cha mẹ nên trở thành những người bạn để các em có thể trao gửi niềm vui, nỗi buồn, tham vấn những điều băn khoăn, vướng mắc trong cuộc sống.
Hai là, về phía nhà trường. Yếu tố bối cảnh như môi trường học đường, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả áp lực bạn bè. Một môi trường học đường hỗ trợ, đặc trưng bởi các mối quan hệ tích cực giữa học sinh và giữa học sinh với giáo viên, có thể giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè. Ví dụ, những trường học khuyến khích sự hòa nhập và tạo cơ hội cho học sinh thể hiện bản thân có thể nuôi dưỡng khả năng phục hồi trước áp lực bạn bè. Ngược lại, một môi trường học đường cạnh tranh hoặc thù địch có thể làm trầm trọng thêm tác động của áp lực bạn bè, dẫn đến sự tuân thủ và tham gia vào các hành vi nguy cơ gia tăng.
Nhà trường cần xây dựng được bầu không khí lành mạnh tốt đẹp cho các em;
cần tăng cường nội dung giáo dục đạo đức cho các em dưới nhiều hình thức;
đưa việc giáo dục giới tính nói chung và tâm lý giới tính nói riêng vào giảng dạy chính khóa trong nhà trường phổ thông; phối hợp với các tổ chức đoàn thành niên, thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về tình bạn;
Ba là, về phía xã hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chiến lượng xây dựng chương trình giáo dục đạo đức đầy đủ và quy mô hơn so với hiện tại, trong đó coi việc giáo dục đạo đức cho người học là một vấn đề quan trọng.
Các địa phương cần có các không gian công cộng để các em có thể thực hiện các hoạt động vui chơi giải trí, hoạt động thể chất.
Các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động, phong trào phát huy tinh thần vì người khác cũng như các buổi sinh hoạt về các chủ đề liên quan đến các hành vi rủi ro của vị thành niên và cách phòng tránh.
Chú thích:
1. Bài viết là sản phẩm của nhiệm vụ cấp cơ sở “Ảnh hưởng của bạn bè đến học tập và đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thông” (Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội) do Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội) chủ trì thực hiện năm 2025.
2, 8. Wang và cộng sự (2018). Friends, academic achievement, and school engagement during adolescence: A social network approach to peer influence and selection effects. Learning and Instruction 58 (2018) 148-160.
3. Gottman, J. M. & Parker, J. G. (Eds) (1987). Conversations of Friends: Speculations on Affective Development. Cambridge: Cambridge University Press. Pp. xvi +429.
4. Witkow, M. R., & Fuligni, A. J. (2010). In-school versus out-of-school friendships and academic achievement among an ethnically diverse sample of adolescents. Journal of Research on Adolescence, 20, 631–650. https://doi.org/10.1111/j.1532-7795.2010.00653.x
5. Bandura, A. (1977). Social learning theory. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall.
6. Laninga-Wijnen, L., Harakeh, Z., Steglich, C., Dijkstra, J. K., Veenstra, R., & Vollebergh, W. (2016). The norms of popular peers moderate friendship dynamics of adolescent aggression. Child Development. https://doi.org/10.1111/cdev.12650
7. Rambaran, J. A., Hopmeyer, A., Schwartz, D., Steglich, C., Badaly, D., & Veenstra, R. (2017). Academic functioning and peer influences: A short-term longitudinal study of network-behavior dynamics in middle adolescence. Child Development, 88, 523–543. https://doi.org/10.1017/CBO9781107415324.004
9. Wentzel, K. R. (1998). Social relationships and motivation in middle school: The role of parents, teachers, and peers. Journal of Educational Psychology, 90(2), 220-230.
10. Gremmen, M. C., Dijkstra, J. K., Steglich, C., & Veenstra, R. (2017). First selection, then influence: Developmental differences in friendship dynamics regarding academic achievement. Developmental Psychology, 53(7), 1356-1370. https://doi.org/10.1037/dev0000314
11. Crosnoe, R., Cavanagh, S., & Elder Jr, G. H. (2003). Adolescent friendships as academic resources: The intersection of friendship, race, and school disadvantage. Sociological Perspectives, 46(3), 331-352.
12. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2023). Thực trạng về hành vi lệch chuẩn của học sinh trung học phổ thông hiện nay (nghiên cứu trường hợp Hà Nội). Báo cáo đề tài cấp cơ sở.
13. Osgood, D. W., Feinberg, M. E., & Ragan, D. T. (2015). Social networks and the diffusion of adolescent problem behavior: Reliable estimates of selection and influence from sixth through ninth grades. Prevention Science, 16, 832–843. https://doi.org/10.1007/s11121-015-0558-7
14. Steinberg, L. (2007). Risk taking in adolescence: New perspectives from brain and behavioral science. Current Directions in Psychological Science, 16, 55–59. https://doi.org/10.1111/j.1467-8721.2007.00475.x
15. Johnson, D. W., & Johnson, R. T. (2017). Teaching students to be peacemakers. Interactions, 28(1), 18 – 20.