Tính đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Cục miền Nam về lãnh đạo công tác dân vận trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1969 – 1972

Trung tá Thái Phi
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Giai đoạn 1969 – 1972 là một thời kỳ đầy thử thách nhưng cũng mang tính bước ngoặt đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam. Sau thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải chuyển hướng chiến lược từ “Chiến tranh cục bộ” sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước tình hình đó, Trung ương Cục miền Nam, cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng tại miền Nam đã đề ra đường lối lãnh đạo công tác dân vận đúng đắn và sáng tạo, đóng vai trò quyết định trong việc giữ vững thế trận cách mạng, huy động sức mạnh toàn dân và làm thất bại các âm mưu thâm độc của kẻ thù, góp phần vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Từ khóa: Công tác dân vận; Trung ương Cục miền Nam; kháng chiến chống Mỹ; giai đoạn 1969 – 1972.

1. Đặt vấn đề

Cuối thập niên 60 thế kỷ XX, cục diện chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô tiếp tục leo thang, tác động sâu rộng đến khu vực Đông Nam Á, trong đó Việt Nam trở thành tâm điểm của cuộc xung đột ý thức hệ. Trước sức ép ngày càng lớn về chính trị và quân sự, chính quyền Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Richard Nixon đã tiến hành điều chỉnh chiến lược quân sự, chuyển sang thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”. Mục tiêu chủ yếu của chiến lược này là giảm thiểu tổn thất cho binh lính Mỹ, từng bước rút quân khỏi Việt Nam, đồng thời tăng cường viện trợ và giao phó vai trò chủ lực cho quân đội Sài Gòn trong cuộc chiến chống lại lực lượng cách mạng miền Nam.

Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng do địch tăng cường càn quét, bình định và lấn chiếm vùng giải phóng. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo trực tiếp, sát sao và linh hoạt của Trung ương Cục miền Nam, các phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang vẫn giữ vững được ý chí cách mạng và tinh thần quyết thắng. Đặc biệt, trong giai đoạn 1969 – 1972, với quyết tâm cao độ và sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Cục trong công tác dân vận, lực lượng cách mạng đã phát huy sức mạnh toàn dân, góp phần quan trọng vào việc làm thất bại từng bước các chiến lược mới của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giữ vững thế trận lòng dân và tạo tiền đề cho thắng lợi sau này.

2. Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận (1969 – 1972)

a. Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai

Sau thất bại nặng nề trong Chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968, Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược quân sự tại Việt Nam nhằm tránh tổn thất thêm cho lực lượng viễn chinh, đồng thời, củng cố chính quyền tay sai tại miền Nam. Trong bối cảnh đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon chính thức khởi xướng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” – một bước phát triển mới của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, với mục tiêu kép: một mặt, vẫn duy trì quyền kiểm soát của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam; mặt khác,tìm cách “rút lui trong danh dự” để thoát khỏi cuộc chiến tranh ngày càng sa lầy và tốn kém.

Cốt lõi của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” dựa trên hai trụ cột chính: một là, gia tăng viện trợ quân sự, kinh tế, kỹ thuật cho chính quyền Sài Gòn, bao gồm việc huấn luyện, trang bị và hiện đại hóa quân lực; hai là, giảm dần sự tham gia trực tiếp của quân đội Mỹ trong các hoạt động chiến đấu, chuyển vai trò chủ lực sang cho quân đội Sài Gòn. Với sự hỗ trợ từ hệ thống cố vấn quân sự và phương tiện chiến tranh hiện đại, Mỹ kỳ vọng biến quân đội Sài Gòn thành lực lượng “tự vệ” đủ sức kiềm chế lực lượng cách mạng miền Nam. Bên cạnh đó, Mỹ vẫn duy trì vai trò chỉ huy chiến lược thông qua hệ thống cố vấn các cấp, đồng thời đẩy mạnh các chiến dịch không quân quy mô lớn, như: ném bom miền Bắc bằng B-52, phá hoại đường Trường Sơn và tiến hành các chiến dịch quân sự như chiến dịch Lam Sơn 719 nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam.

Về mặt chính trị – xã hội, chính quyền Sài Gòn dưới sự chỉ đạo của Mỹ triển khai hàng loạt chương trình bình định – lập ấp chiến lược, cưỡng ép tái định cư, bóp nghẹt vùng giải phóng và các cơ sở cách mạng ở nông thôn – nơi được xem là hậu cứ quan trọng của phong trào kháng chiến. Các hoạt động này đi kèm với những hành động tàn bạo, từ triệt hạ cơ sở cách mạng, bắt bớ, ám sát cán bộ, đến đàn áp phong trào quần chúng bằng biện pháp vũ lực và khủng bố tinh thần. Ngoài ra, Mỹ và chính quyền tay sai còn sử dụng thủ đoạn chiến tranh tâm lý và tuyên truyền, nhằm xuyên tạc bản chất chính nghĩa của cách mạng miền Nam, bôi nhọ hình ảnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng, gây hoài nghi trong nội bộ nhân dân. Lợi dụng những khác biệt về tôn giáo, dân tộc, Mỹ kích động chia rẽ trong lòng xã hội miền Nam hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc – nền tảng cốt lõi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tổng thể, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là một kế sách tổng lực mang tính chất thực dân mới, kết hợp giữa quân sự, chính trị và chiến tranh tâm lý. Tuy được tính toán kỹ lưỡng nhưng chiến lược này không thể che giấu bản chất phản động và phi nghĩa, càng thúc đẩy phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm tiếp theo.

b. Chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận

Giai đoạn 1969 – 1972 là thời kỳ đặc biệt quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trước tình hình chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn được triển khai mạnh mẽ, Trung ương Đảng đã xác định công tác dân vận là một nhiệm vụ chiến lược giữ vai trò nòng cốt trong việc tập hợp sức mạnh toàn dân và bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa các lực lượng chính trị, quân sự và xã hội. Chủ trương công tác dân vận trong giai đoạn này không chỉ nhằm duy trì, củng cố lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng mà còn hướng đến mục tiêu phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết dân tộc để làm thất bại âm mưu chia rẽ, bình định, lấn chiếm của kẻ thù.

Trước tình hình mới, ngày 10/5/1969, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 188-NQ/TW về tình hình và nhiệm vụ. Chủ trương của Bộ Chính trị về xác định nhiệm vụ trước mắt, đó là: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh 3 mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao”1

Tại Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương (khóa III), ngày 27/01/1970 đã xác định: “cần có chủ trương và biện pháp đúng đắn, thích hợp nhằm tập hợp được quần chúng cơ bản, lôi kéo được các tầng lớp trung gian, khơi sâu được mâu thuẫn của địch, đưa phong trào tiến lên vững chắc từ thấp đến cao”2. Trung ương Đảng nhấn mạnh vai trò trung tâm của quần chúng nhân dân trong cuộc kháng chiến. Nhân dân được xem là chủ thể quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, chủ trương của Đảng huy động toàn diện các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến, bao gồm nông dân, công nhân, trí thức, phụ nữ, thanh niên, đồng bào dân tộc thiểu số và tín đồ tôn giáo. Để đạt được điều này, công tác dân vận phải bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ giữa vận động chính trị, tuyên truyền tư tưởng và tổ chức thực tiễn.

Một trong những chủ trương quan trọng của Trung ương Đảng trong giai đoạn này là tăng cường tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức chính trị cho quần chúng. Tại Hội nghị lần thứ 20 (khóa III) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 27/01 – 11/02/1972, Hội nghị xác định: “Vấn đề quan trọng bậc nhất là tập hợp quần chúng, tổ chức lực lượng của quần chúng, xây dựng đội ngũ đấu tranh chính trị, xây dựng tổ chức nòng cốt, xây dựng đảng, phấn đấu tích cực để thu hút đông đảo quần chúng cơ bản và các tầng lớp khác vào mặt trận đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng”3. Trung ương Đảng chỉ đạo các cơ quan dân vận phối hợp với các tổ chức đoàn thể, như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân để tổ chức các phong trào đấu tranh phù hợp với từng nhóm xã hội. Cụ thể, những phong trào, như: “Đồng khởi chính trị”, “Phụ nữ ba đảm đang,” hay “Thanh niên ba sẵn sàng” được đẩy mạnh, tạo động lực thúc đẩy phong trào cách mạng trong nhân dân. Thông qua những phong trào này, quần chúng không chỉ tham gia vào các hoạt động kháng chiến mà còn cảm nhận được vai trò, trách nhiệm của mình đối với vận mệnh đất nước.

Bên cạnh đó, Trung ương Đảng chủ trương mở rộng và củng cố cơ sở cách mạng ở nông thôn và đô thị. Nông thôn tiếp tục là địa bàn chiến lược, nơi các lực lượng dân vận tổ chức xây dựng mạng lưới cơ sở vững mạnh để làm hậu thuẫn cho các hoạt động quân sự và chính trị. Đối với các vùng đô thị, nơi địch kiểm soát chặt chẽ, công tác dân vận được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện hoạt động bí mật. Các hình thức đấu tranh chính trị, kinh tế và văn hóa tại đây được Đảng chỉ đạo triển khai linh hoạt nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp trí thức, công nhân và tiểu thương vào phong trào đấu tranh chống địch. 

Đặc biệt, công tác dân vận trong giai đoạn này nhấn mạnh đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Trung ương Đảng đề ra chủ trương vận động đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo và những người có tư tưởng trung lập tham gia vào sự nghiệp chung, “phải xây dựng và mở rộng những vùng giải phóng ở các địa bàn rừng núi quan trọng về chiến lược, củng cố quyền làm chủ, thực hiện tốt chính sách đoàn kết dân tộc”4. Các chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng được triển khai hiệu quả, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của từng nhóm đối tượng. Điều này không chỉ giúp tập hợp rộng rãi lực lượng mà còn làm thất bại các âm mưu chia rẽ của địch.

Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng đến việc kết hợp chặt chẽ giữa công tác dân vận và các hoạt động quân sự. Đây là đặc trưng sáng tạo trong lãnh đạo của Trung ương Đảng. Công tác dân vận được thực hiện song hành với các chiến dịch quân sự lớn, như: chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (1971) và các hoạt động phòng ngự trước chiến dịch Lam Sơn 719 của địch. Chính sự kết hợp này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp; vừa bảo vệ các vùng căn cứ cách mạng vừa mở rộng vùng giải phóng, tạo thế và lực cho cách mạng miền Nam.

3. Tính đúng đắn, sáng tạo trong lãnh đạo công tác dân vận của Trung ương Cục miền Nam (1969 – 1972)

Trong điều kiện chiến tranh ngày càng khốc liệt, đặc biệt khi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” được Mỹ – ngụy triển khai toàn diện, Trung ương Cục miền Nam đã thể hiện rõ bản lĩnh lãnh đạo và tầm nhìn chiến lược trong việc xác định công tác dân vận là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cách mạng miền Nam. Tính đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Cục được thể hiện nổi bật ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, đã quán triệt sâu sắc chỉ đạo của Trung ương Đảng, kịp thời xác định chủ trương lãnh đạo đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 (tháng 7/1969), Trung ương Cục miền Nam đã đề ra chủ trương tăng cường công tác dân vận làm cơ sở vững chắc đẩy mạnh phong trào chính trị và binh vận tiến kịp tình hình mới nhằm “phát huy tới mức cao khả năng cách mạng to lớn của quần chúng trong mọi mặt chiến đấu và sản xuất để tiến lên giành thắng lợi quyết định, là tạo điều kiện cơ bản để tăng cường sức mạnh của ta khi chiến tranh kết thúc và sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của địch trong đấu tranh chính trị”5. Nghị quyết xác định tăng cường chỉ đạo công tác dân vận là cái gốc để đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và binh vận, là một yêu cầu rất cơ bản và bức thiết hiện nay để phát huy tới mức cao khả năng cách mạng to lớn của quần chúng trong mọi mặt chiến đấu và sản xuất để tiến lên giành thắng lợi quyết định, tạo điều kiện cơ bản để tăng cường sức mạnh của ta khi chiến tranh kết thúc và sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của địch trong đấu tranh chính trị.

Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ 10 Trung ương Cục miền Nam đã đề ra chủ trương: “phải nắm vững khâu công tác dân vận để đánh bại bình định và âm mưu Việt Nam hóa của đế quốc Mỹ”6. Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh rằng, quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu quyết định sự thành bại của cách mạng, “phải tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác nắm dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của dân, không làm như vậy thì không thể có phá mảng phá bè, không thể căn bản đánh bại kế hoạch bình định của địch”7. Vì vậy, mọi hoạt động vận động phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí tự cường.

Thứ hai, vận dụng linh hoạt nguyên lý “lấy dân làm gốc” vào từng vùng, từng đối tượng.

Trước những âm mưu chia rẽ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam đặc biệt chú trọng đến việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Các chính sách dân tộc và tôn giáo được thực hiện nhằm vận động đồng bào dân tộc thiểu số, các nhóm tôn giáo và cả những người trung lập tham gia vào công cuộc kháng chiến. Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Cục miền Nam xác định: “Phải có nhiều hình thức phong phú sát hợp với nhiều loại quần chúng, sát với từng vùng để tập hợp được đông đảo quần chúng, khắc phục tình trạng nghèo nàn đơn điệu trong hình thức, phương pháp vận động quần chúng”8

Trung ương Cục nhấn mạnh phải tuyên truyền rộng rãi chính sách hòa hợp dân tộc của ta để tranh thủ các lực lượng chính trị đang phát triển trong các tôn giáo, trong ngụy quân, ngụy quyền. Mặt khác, phải kịp thời đề ra các khẩu hiệu thích hợp để tập hợp đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh. Trong đấu tranh cần tổ chức phối hợp liên xã, liên huyện, liên trường, liên xí nghiệp… tạo ra phong trào rộng nhất, mạnh nhất, tiến tới Đồng Khởi, giải phóng hàng loạt xã ấp ở những vùng ta mạnh.

Một sáng tạo lớn trong công tác dân vận của Trung ương Cục miền Nam là việc phân loại đối tượng quần chúng để có phương pháp vận động linh hoạt và hiệu quả, “… phải đi sâu, đi vào cụ thể và sát hợp hơn đối với các vùng, các tầng lớp, các giới, thậm chí từng chòm xóm và gia đình”9. Nông dân, công nhân, trí thức, phụ nữ, thanh niên và đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận bằng các cách thức riêng biệt, phù hợp với đặc điểm và điều kiện sống của từng nhóm. Điều này giúp tối đa hóa hiệu quả vận động, bảo đảm tất cả các tầng lớp nhân dân đều tham gia tích cực vào kháng chiến. Công tác vận động các giai cấp cách mạng, các tầng lớp: tiểu tư sản, công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức… đấu tranh được đẩy mạnh gắn với các khẩu hiệu thiết thực, như: chống càn quét, bắn giết bừa bãi, chống bắt lính, chống văn hóa phẩm đồi trụy, xây dựng văn hóa dân tộc.

Cùng với đó, Trung ương Cục miền Nam phát động cao trào cách mạng dưới khẩu hiệu: “Hòa bình – Dân chủ – Cơm áo – Hòa hợp dân tộc” thể hiện những nguyện vọng sâu xa và bức thiết nhất của quần chúng; phản ánh những yêu cầu cơ bản và cấp bách của cách mạng, đồng thời cũng là một đòn tấn công đánh thẳng vào những âm mưu ý đồ trước mắt và lâu dài của địch. Nội dung này đã thu hút được đông đảo người tham gia các phong trào đấu tranh, “đặc biệt là phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Từ Sài Gòn, phong trào lan ra khắp các đô thị lớn, thu hút hơn 60.000 người tham gia và kéo dài liên tục”10. Đơn cử: ở Mỹ Tho, đã tập trung hóa được 650 đồn bốt trong tổng số 700 đồn. Ở khu IX, đã xây dựng được cơ sở ở 500 ấp trong tổng số 1.000 ấp trắng và phát triển thêm được 200 đảng viên, 200 du kích, 1.000 tân binh. Tại Đông Nam Bộ, phong trào nhân dân bung ra, trở về sản xuất, bám ruộng vườn phát triển mạnh ở các tỉnh: Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Phân khu 111.

Thứ ba, lãnh đạo công tác dân vận bảo đảm tính toàn diện, đưa các phong trào nhỏ lẻ phát triển thành cao trào cách mạng rộng rãi.

Trung ương Cục miền Nam đã xây dựng các đề án về công tác thanh vận, phụ vận, nông vận, Mặt trận… để tập hợp, phát huy sức mạnh của các lực lượng trong đấu tranh chống đế quốc Mỹ, ra sức giáo dục tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh và xây dựng cơ sở cách mạng, mở rộng phong trào, ngăn chặn đẩy lùi các chính sách đàn áp, bóc lột của địch, tạo điều kiện tiến lên cao trào ở Sài Gòn và các thành thị miền Nam. Hội nghị lần thứ 10 Trung ương Cục miền Nam xác định: “Việc vận dụng phương đấu tranh, hình thức tổ chức quần chúng phải chuyển kịp và thật phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới”12

Trung ương Cục miền Nam cũng đã nhấn mạnh, muốn đánh bại chính sách bình định của địch, tạo điều kiện thuận lợi để tiến lên lật đổ ngụy quân, ngụy quyền, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, phải nắm vững ba quan điểm về công tác vận động quần chúng. Các tổ chức “Lực lượng hòa giải và hòa hợp dân tộc”, “Mặt trận Nhân dân cứu đói”, “Ủy ban đấu tranh đòi thả tù chính trị” lần lượt ra đời.

Cùng với đó là đẩy mạnh các cuộc bãi công của các tầng lớp nhân dân. Tiêu biểu: Ngày 05/4/1970, có 60.000 sinh viên của các trường đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, cùng hàng chục nghìn sinh viên, học sinh tại các đô thị khác ở miền nam tổng bãi khóa chống chính quyền Sài Gòn… Ngày 25/6/1970, 10 vạn công dân Sài Gòn – Gia Định tổng bãi công đòi cải thiện đời sống làm việc, làm tê liệt hoạt động tại các bến cảng. Ngày 09/02/1971, khi địch đưa quân sang Nam Lào, hàng vạn thanh niên, học sinh, sinh viên Sài Gòn – Chợ Lớn xuống đường phản đối chiến tranh, lên án hành động tội ác của Mỹ, Ngụy13

Những hình thức thống nhất hành động và các phong trào liên hiệp đấu tranh đã dồn ngụy quyền vào tình thế hoàn toàn bị cô lập. Các phong trào quần chúng trong giai đoạn này được tổ chức một cách sáng tạo, gắn liền với thực tiễn địa phương và nhu cầu cấp bách của Nhân dân. Ở các vùng nông thôn, phong trào “Bảo vệ lúa mùa” giúp Nhân dân vừa sản xuất lương thực vừa đấu tranh bảo vệ cơ sở cách mạng. Ở các vùng đô thị, phong trào học sinh, sinh viên tổ chức các cuộc biểu tình, xuống đường, tạo áp lực lớn đối với chính quyền Sài Gòn.

Làm tốt công tác vận động quần chúng, ta đã liên tục giành thắng lợi trong cuộc chiến giữ đất, giành dân. Các cuộc đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân liên tục diễn ra; các vùng căn cứ kháng chiến không ngừng được mở rộng và giữ vững. Được sự đóng góp của Nhân dân, chỉ tính riêng trong năm 1972, trên chiến trường miền Nam ta đã “loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 vạn tên địch, vùng giải phóng của ta được mở rộng tạo thế liên hoàn từ Trị – Thiên, Khu 5 vào đến đồng bằng sông Cửu Long. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị đẩy đến bờ vực phá sản”14 và “giải phóng 72 xã với 35 vạn dân thuộc các tỉnh Bến Tre, Kiến Phong, Kiến Tường… xây dựng được hơn 2.000 cơ sở trong lòng địch, giải phóng trên 400 ấp với khoảng 800.000 dân”15.

Phong trào đấu tranh tại các đô thị miền Nam đòi thi hành Hiệp định Pari, đòi dân sinh, dân chủ phát triển mạnh mẽ, phong trào đấu tranh chính trị đòi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức bắt đầu nhen nhóm trong các tôn giáo và đảng phái ở miền Nam. Công tác dân vận đã phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đến thắng lợi cuối cùng. Thắng lợi to lớn đó đã làm phá sản chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cổ vũ động viên phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ trên phạm vi thế giới. 

4. Kết luận 

Giai đoạn 1969 – 1972 là một chặng đường đặc biệt quan trọng trong tiến trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam, nhất là trên chiến trường miền Nam. Trong bối cảnh chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” được Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện một cách toàn diện và thâm độc, Trung ương Cục miền Nam đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo bản lĩnh, sáng suốt và nhạy bén trong việc xác định công tác dân vận là một mũi nhọn chiến lược, giữ vai trò then chốt trong xây dựng lực lượng chính trị, bảo vệ và phát triển vùng giải phóng. Thành công của công tác dân vận giai đoạn 1969 – 1972 đã để lại nhiều bài học quý báu về xây dựng lực lượng chính trị, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và kết hợp linh hoạt giữa công tác tư tưởng, tổ chức và hành động thực tiễn. Những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị, góp phần định hướng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới – thời kỳ của hội nhập, phát triển và giữ vững bản sắc dân tộc, quốc phòng toàn dân.

Chú thích:

1, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 30. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 132, 139.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 31. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 76 – 77.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 33. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 45.

5, 8. Trung ương Cục miền Nam (2020). Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946  1975.Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 471, 472 -473.

6, 9, 12. Trung ương Cục miền Nam (2020). Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946 1975. Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 612, 389, 617.

7. Trung ương Cục miền Nam (2020). Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946  1975.Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 680.

10, 11, 15. Nguyễn Quý (2010). Lịch sử Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 – 1975). H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 398, 412, 430.

13. Viện Sử học (2017). Lịch sử Việt Nam. Tập 13. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 310.

14. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2019). Lịch sử quân sự Việt Nam. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 373.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Quốc phòng (2021). Tổng kết Đảng lãnh đạo quân sự và quốc phòng trong cách mạng Việt Nam (1945 – 2000). H. NXB Quân đội nhân dân.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận để nâng cao chất lượng công tác dân vận các đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/07/10/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dan-van-de-nang-cao-chat-luong-cong-tac-dan-van-cac-don-vi-co-so-trong-quan-doi-nhan-dan-viet-nam/