Thiếu tá Phùng Thanh Hải
Hệ 5, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng nông thôn mới là một cuộc cách mạng nhằm thay đổi tư duy, nhận thức và hành động của các tổ chức, lực lượng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Bài viết làm rõ một số kết quả đạt được về xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Phú Thọ) giai đoạn đoạn 2010 – 2020; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Kinh nghiệm, xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Phú Thọ), giai đoạn 2010-2020.
1. Đặt vấn đề
Vĩnh Phúc là tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở cửa ngõ Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, là tỉnh có sự kết hợp giữa địa hình trung du, miền núi và đồng bằng. Đây cũng là tỉnh giàu truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa, nơi giao thoa của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, nơi ghi đậm dấu ấn của cuộc đấu tranh oanh liệt giành độc lập dân tộc với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Giữ gìn và phát huy truyền thống đó, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, đặc biệt từ khi có Đảng lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã đồng hành với đất nước trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng về tinh gọn, tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, sắp xếp lại giang sơn, ngày 30/6/2025 Vĩnh Phúc đã sáp nhập về tỉnh Phú Thọ, tạo không gian phát triển mới cho cho tỉnh Vĩnh Phúc (cũ) trên các lĩnh vực, nhất là trong xây dựng nông thôn mới.
2. Một số kết quả đạt được của Đảng bộ tỉnh Vĩnh phú lãnh đạo xây dựng nông thôn mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào Nhân dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”1. Đảng ta cũng chỉ rõ: “Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ; môi trường xanh, sạch, đẹp, đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc”2.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật Nhà nước vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn kết, ủng hộ của nhân dân chủ trương xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh mẽ từ sau Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, nhất là khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Trên cơ sở đó, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 03/2011/NQ-HĐND ngày 09/4/2011 về xây dựng nông thôn mới tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010-2020; Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 19/2011/QĐ-UBND ngày 20/4/2011 về Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2011 – 2020.
Trong giai đoạn 2010 -2015 Tỉnh kiện toàn Ban chỉ đạo, xây dựng chương trình hành động và lãnh đạo, chỉ đạo các bộ phận, lực lượng tổ chức thực hiện Chương trình theo Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, ban hành nhiều cơ chế, chính sách thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, như: đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, giải phóng mặt bằng, mua sắm các trang thiết bị nhà văn hóa thôn, xã; cơ chế hỗ trợ bảo vệ môi trường nông thôn; cơ chế lồng ghép Chương trình xây dựng nông thôn mới với thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
Giai đoạn 2016-2020 Chương trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được những kết quả bước đầu. Tư duy nhận thức của cán bộ, đảng viên và người dân về xây dựng nông thôn mới ngày càng thay đổi, đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó người dân là chủ thể; khắc phục được tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên các cấp đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về tầm quan trọng của việc xây dựng nông thôn mới trên các phương tiện thông tin truyền thông; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành vận động nhân dân tham gia xây dựng nông thôn mới; người dân tích cực, chủ động đóng góp sức người, sức của vào xây dựng nông thôn mới… Qua đó, đã tạo sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động trong hệ thống chính trị và Nhân dân về xây dựng nông thôn mới, từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân vùng nông thôn.
Tính đến hết năm 2015 tổng số xã đạt chuẩn: 68/112 xã (60,7%) vượt 15 xã (13,7%) so với Chương trình đề ra, bình quân đạt 16,54 tiêu chí/xã tăng 9,88 tiêu chí so với năm 2010, vượt 20,7% mục tiêu của Nghị quyết Đại hoi Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (2010-2015) đề ra (35 – 40%) số xã đạt chuẩn nông thôn mới3.
Một số tiêu chí cụ thể: về quy hoạch xây dựng nông thôn mới, 100% số xã trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành công tác quy hoạch vào tháng 11/2011 và đề án xây dựng nông thôn mới hoàn thành vào tháng 12/2012. Về giao thông đã cứng hóa được 528,3km đường từ trung tâm xã đến đường huyện, 724km đường trục, thôn, ngõ xóm, 716km đường trục chính nội đồng. Về Thuỷ lợi 100% kênh loại I, II và 97% kênh loại III được kiên cố hóa, trên 300 công trình đầu mối, trạm bơm, hồ đập được đầu tư cải tạo, nâng cấp,… đáp ứng nhu cầu sản xuất, đời sống dân sinh và từng bước sẵn sàng ứng phó với biến đổi khí hậu4.
Về cơ sở vật chất văn hóa, các địa phương đã chú trọng đầu tư xây dựng, nâng cấp các thiết chế văn hóa, thể thao. Đã có 109/112 xã có trung tâm văn hóa, thể thao. Về hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở, 100% số xã của tỉnh đều có điểm phục vụ bưu chính (109 bưu cục, Bưu điện – Văn hóa xã. Về nhà ở dân cư, trong 10 năm (2010 – 2020), toàn tỉnh đã hỗ trợ xóa được 5.625 nhà tạm, dột nát cho hộ nghèo; có khoảng gần 18.470 nhà ở đã được cộng đồng xây mới, cải tạo nâng cấp5….
Chuyển dịch trong nội bộ ngành nông, lâm, ngư nghiệp có bước phát triển theo hướng phát huy các lợi thế của địa phương. Giai đoạn (2010-2019) giá trị sản xuất trồng trọt tăng bình quân 1,7%/năm; năm 2019 ước đạt 3.648,2 tỷ đồng; giá trị sản xuất chăn nuôi tăng bình quân 6,02%/năm5. Những kết quả đạt được ở trên đã góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống của người dân, thu nhập bình quân ở khu vực nông thôn năm 2018 đạt 38,28 triệu đồng/người/năm. Có 112/112 xã (bằng 100%) đạt chuẩn tiêu chí số 10 về thu nhập (tăng 97 xã so với năm 2010, tăng 15 xã so với năm 2015)6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đạt kết quả tốt. Hệ thống chính trị vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Năm 2018, tỷ lệ, cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn chiếm 99,9%; tỷ lệ xã đạt tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh đạt 98%7.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được công tác lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh về xây dựng nông thôn mới giai đoạn (2010-2020) còn một số hạn chế, như: công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng và một số địa phương, đơn vị chưa linh hoạt, sáng tạo, nhất là cấp xã. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân là nội dung chính trong xây dựng nông thôn mới nhưng các địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa có cách nghĩ, cách làm sáng tạo để huy động các nguồn lực, đánh thức, khơi dậy tiềm năng, lợi thế của mỗi địa phương, mỗi tổ chức, lực lượng. Một số cấp ủy đảng chưa chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, trình độ của một số ít cán bộ, đảng viên vẫn còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
3. Một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng nông thôn mới
Đảng xác định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8; trước yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới; đặc biệt là việc sáp nhập về tỉnh Phú Thọ đã đặt ra những yêu cầu mới rất cao về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong sạch, vững mạnh để phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực; trong đó, xây dựng nông thôn mới là trụ đỡ cho sự phát triển bền vững của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Phú Thọ) góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã xác định: “Kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, lấy khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế tư nhân làm động lực chính. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy giá trị. Xã hội phát triển hài hòa, môi trường sinh thái trong lành, chất lượng cuộc sống được nâng lên toàn diện, Nhân dân có thu nhập cao, văn minh, hạnh phúc. Giữ vai trò trụ cột trong bảo đảm an ninh năng lượng, quốc phòng, an ninh và kết nối vùng”9.
Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương, bám sát chỉ đạo của Trung ương, đánh giá đúng thực lực của địa phương, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nông thôn mới phù hợp.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ tỉnh cần quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ tương, chỉ đạo của Trung ương về xây dựng nông thôn mới sát hợp với đặc điểm tình hình của địa phương; từ đó, xác định những nội dung trọng tâm, trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các bộ phận, lực lượng tổ chức thực hiện đúng, trúng với các chỉ tiêu, nội dung của Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới đã xác định.
Nội dung của kinh nghiệm chỉ rõ: cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, ban ngành và cán bộ, đảng viên, công chức gương mẫu đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; lời nói và hành động đi liền với nhau, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; đề cao tinh thần, trách nhiệm trong quá trình thực thi công vụ. Bám sát cơ sở, đi sâu vào quần chúng nhân dân để tạo sự đồng thuận, thống nhất trong mỗi chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới. Kịp thời điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách về xây dựng nông thôn mới phù hợp với các đối tượng, địa phương. Coi trọng hoạt động tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm việc thực hiện xây dựng nông thôn mới của các bộ phận, lực lượng, từ đó, xác định những khâu đột phá tập trung nhân lực, vật lực thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Để thực hiện tốt những nội dung trên, cần phát huy tinh thần đoàn kết trong nội bộ cấp ủy, trong từng tổ chức đảng, trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội. Nghiên cứu quán triệt thật sâu sắc các văn bản, hướng dẫn của Trung ương về xây dựng nông thôn mới; nắm vững những nguyên tắc trong xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ để thảo luận, góp ý xây dựng chương trình, kế hoạch xây dựng nông thôn mới phù hợp với từng thôn, xóm; phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên phụ trách, chịu trách nhiệm trước cấp ủy, tổ chức đảng về kết quả thực hiện nhiệm vụ. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao ở các bộ phận, lực lượng để kịp thời, điều chỉnh, bổ sung nguồn nhân lực phù hợp; chấn chỉnh, nhắc nhở, uốn nắn nhận thức, hành động chưa đúng, chưa thống nhất, tư tưởng xả hơi, dựa dẫm, ỷ lại vào sự định hướng, giúp đỡ của cấp trên.
Hai là, coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân về xây dựng nông thôn mới.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại. Muốn thành công, phải biết cách tuyên truyền”10. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong xây dựng nông thôn mới, Đảng đã tập hợp, đoàn kết được đông đảo các giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia vào thực hiện các phong trào cách mạng đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Nhân dân đến thắng lợi cuối cùng.
Trong công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục xây dựng nông thôn mơi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động này; xây dựng nội dung, xác định hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục phù hợp, hiệu quả với các địa phương. Tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân cùng chung sức, đồng lòng với Đảng bộ, chính quyền, địa phương trong xây dựng nông thôn mới; khi có các phong trào thi đua, Nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia, vận động Nhân dân xóa bỏ tập tục, thói quen lạc hậu, mê tín dị đoan, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh với các tệ nạn xã hội, theo dõi trên các phương tiện truyền thông những thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước; Đảng, Nhà nước khuyến khích làm giàu, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp phát triển kinh tế tư nhân nhưng theo đúng quy định pháp luật và theo định hướng xã hội chủ nghĩa; ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vào phát triển kinh tế – xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng văn minh, hiện đại, thân thiện với môi trường…
Để thực hiện tốt những nội dung cơ bản trên, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên ở cơ quan, ban, ngành, địa phương nắm chắc quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật Nhà nước về xây dựng nông thôn mới để tuyên truyền, vận động, giáo dục đúng, trúng. Xác định đúng đối tượng ở các địa phương trong tuyên truyền, vận động, thuyết phục; vận dụng linh hoạt, sáng tạo nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động, thuyết phục. Tổ chức phát động phong trào thi đua khơi dậy ý chí, khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp trong Nhân dân, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu; xây dựng ý chí, động cơ đúng đắn trong xây dựng nông thôn mới; ứng dụng, sử dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong tuyên truyền, vận động, giáo dục Nhân dân về chương trình xây dựng nông thôn mới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, công chức trong tuyên truyền, vận động, giáo dục Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, am hiểu phong tục truyền thống địa phương, nắm chắc pháp luật, hiểu biết các vấn đề xã hội, có kỹ năng thuyết trình để giải thích, hướng dẫn và cùng với người dân giải quyết, xử lý có hiệu quả các tình huống nảy sinh từ thực tiễn.
Ba là, huy động và sử dụng nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm và điều kiện của địa phương.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã xác định: “Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và sự đồng thuận của Nhân dân. Chấp hành nghiêm, cụ thể hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn của địa phương”11. Do đó, việc huy động và sử dụng nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm và điều kiện của địa phương có ý nghĩa rất quan trọng để giữ vững và phát huy kết quả đạt được trong bối cảnh lịch sử mới.
Thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào các nguồn lực được huy động đầy đủ, toàn diện vào thực hiện nhiệm vụ sẽ đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo ra những dấu ấn, đặc điểm, sắc thái riêng của mỗi địa phương. Đối với kinh nghiệm này, trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, các tổ chức, lực lượng cần có sự phối kết hợp với nhau một cách nhịp nhàng, đồng bộ, thống nhất từ nội dung cho đến biện pháp tiến hành để tránh sự trùng lặp trong công việc; phân công, giao nhiệm vụ cho từng cơ quan, ban, ngành với từng nội dung cụ thể. Đánh giá một cách căn cơ, toàn diện, lịch sử, khách quan những thuận lợi, khó khăn trong xây dựng nông thôn mới ở mỗi địa phương để phân bổ kinh phí, huy động các nguồn lực phù hợp, hiệu quả, đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Phát huy tính năng động, sáng tạo của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; tất cả vì mục tiêu chung giữ gìn sự ổn định, phát triển bền vững kinh tế – xã hội của tỉnh.
Chú trọng đến công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ để đặt lợi ích của tập thể, của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu có tinh thần, trách nhiệm cao, sát cơ sở, lắng nghe người dân để kịp thời giải quyết những khó khăn, khúc mắc của Nhân dân địa phương. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong xây dựng nông thôn mới ở cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, Nhân dân địa phương đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức nâng cao khả năng tự đề kháng, miễn dịch với ảnh hưởng tiêu cực của xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường; toàn tâm, toàn ý cho Nhân dân; gắn bó mật thiết với Nhân dân, lấy nụ cười của người dân làm mục tiêu, động lực cho quá trình làm việc. Xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học, khẩn trương, sát sao, cầu thị, lắng nghe để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong bối cảnh mới. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, quan liêu, xa dân, nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây cản trở cho người dân, doanh nghiệp khi đến làm việc; hoặc làm việc thiếu trách nhiệm, bảo kê cho những tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên lãng phí, đấu thầu không đúng quy định.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, kịp thời biểu dương nhân rộng điển hình tiên tiến xây dựng nông thôn mới.
Đảng chỉ rõ: “Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối với cấp dưới”12. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng, qua đó, kịp thời, chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý sai phạm xảy ra trong thực tiễn thực thi nhiệm vụ; đồng thời biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có nhiều nỗ lực, cố gắng trong công việc. Do đó, để nâng cao công tác kiểm tra, kiểm soát trong xây dựng nông thôn mới, trước hết cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu và uỷ ban kiểm tra các cấp quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm, đường lối của Đảng về kiểm tra, giám sát; kiểm tra, giám sát thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm. Kiểm tra, giám sát tạo được sự chuyển biến tích cực của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ, tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, đơn vị, địa phương, thúc đẩy thực hiện các tiêu chí của xây dựng nông thôn mới.
Nâng cao năng lực của đội ngũ cấp uỷ viên làm công tác kiểm tra, giám sát tiến độ, chất lượng thực hiện các hạng mục công trình của xây dựng nông thôn mới ở các địa phương. Kiểm tra các khoản chi, tiêu ở các địa phương có đúng với quy định tài chính không; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong phối kết hợp với Nhân dân tham gia đóng góp xây dựng hệ thống đường giao thông, xây dựng nhà văn hoá thôn…
Đội ngũ cấp ủy nắm chắc các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phong tục, truyền thống địa phương để kiểm tra, giám sát đúng, trúng. Cũng là cơ sở, tiền đề quan trọng để chỉ ra những sai phạm, thiếu sót trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở các địa phương. Việc kiểm tra, giám sát của cơ quan cấp trên với cấp dưới cần khách quan, chính xác, công tâm, minh bạch để tạo động lực, khí thế mới trong quá trình thực thi nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; tuyệt đối không được lồng ghép động cơ cá nhân, trù dập cấp dưới sẽ triệt tiêu động lực, ý chí phấn đấu vươn lên trong công việc của mỗi tập thể, cá nhân.
4. Kết luận
Kết quả lãnh đạo xây dựng nông thôn mới ở Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Phú Thọ) giai đoạn 2010 -2020 là tiền đề, động lực để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Phú Thọ tiếp tục phấn đấu vươn lên xây dựng quê hương ngày càng văn minh, hiện đại, xứng đáng là vùng đất Tổ – nơi hội tụ của sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc. Từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -2020 đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, những kinh nghiệm đó không chỉ có giá trị lý luận, thực tiễn ở thời điểm lịch sử bắt đầu xây dựng nông thôn mới mà tiếp tục chỉ dẫn, định hướng trên con đường xây dựng nông thôn mới hiện đại theo quy định của Chính phủ. Những kết quả đạt được về các phương diện xây dựng nông thôn mới đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thấm đượm chất quê hương của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Phú Thọ, đóng góp vào bức tranh phát triển kinh tế – xã hội nhanh, ổn định và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 246.
2, 8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
3, 4, 5, 6, 7. Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2019). Báo cáo số 261/BC-UBND ngày 27/9/2019 báo cáo Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2010.
9, 11. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. https://baophutho.vn, ngày 30/9/2025.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 292.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 189 – 190.