Đổi mới quy trình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước

TS. Lê Thị Hoa
Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh mới, yêu cầu đổi mới toàn diện công tác xây dựng pháp luật trở thành nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích một cách có hệ thống các căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn của công tác đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp đột phá nhằm hiện đại hóa và nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch.

Từ khóa: Đổi mới quy trình, xây dựng pháp luật, yêu cầu phát triển đất nước, bối cảnh mới.

1. Đặt vấn đề

Xây dựng pháp luật là nhiệm vụ có tính nền tảng trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã đặt ra yêu cầu cơ bản và cấp thiết là hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, phải tháo gỡ những điểm nghẽn thể chế để pháp luật thực sự trở thành động lực của đổi mới sáng tạo, của phát triển nhanh và bền vững.

Sau gần 40 năm đổi mới Việt Nam đã cơ bản xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy dân chủ XHCN và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới với sự phát triển của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, công tác xây dựng pháp luật bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập đòi hỏi tiếp tục đổi mới mạnh mẽ. Đặc biệt, chủ trương lớn về việc triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp trên cả nước từ ngày 01/7/2025 đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ để mô hình này vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, chuyển mạnh sang nền hành chính phục vụ, kiến tạo phát triển.

Nhận thức rõ tầm quan trọng chiến lược này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 66-NQ/TW khẳng định, xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của những đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước thời kỳ mới. Đây không chỉ là một định hướng chiến lược mà còn là sự khẳng định sâu sắc về vai trò nền tảng của pháp luật trong mọi nỗ lực cải cách. Với mục tiêu bảo đảm quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật dân chủ, chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả; phân định rõ quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo văn bản; từng bước thực hiện soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, chuyên nghiệp. Việc đổi mới quy trình xây dựng pháp luật một cách căn bản, toàn diện đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

2. Căn cứ đổi mới quy trình xây dựng pháp luật

Công cuộc đổi mới quy trình xây dựng pháp luật Việt Nam được tiến hành trên những cơ sở vững chắc, bao gồm: căn cứ chính trị từ đường lối của Đảng, căn cứ pháp lý từ sự cải cách của Quốc hội và căn cứ thực tiễn từ những tồn tại, bất cập của hệ thống pháp luật hiện nay.

2.1. Căn cứ chính trị

Đổi mới quy trình xây dựng pháp luật bắt nguồn từ tinh thần đột phá của Nghị quyết số 66-NQ/TW thể hiện:

Thứ nhất, chuyển đổi tư duy lập pháp từ quản lý sang kiến tạo. Nghị quyết số 66-NQ/TW là nền tảng chiến lược cao nhất, định hình lại toàn diện tư duy lập pháp. Nghị quyết yêu cầu phải chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo, trong đó pháp luật phải được nhìn nhận như một động lực phát triển chứ không chỉ là công cụ điều chỉnh hành vi. Mục tiêu cốt lõi là xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, khả thi và thực thi nghiêm minh, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Sự thay đổi tư duy này là nền tảng để mỗi đạo luật ban hành không chỉ giải quyết các vấn đề hiện tại mà còn mở đường, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong tương lai.

Thứ hai, nâng tầm lãnh đạo và chỉ đạo công tác lập pháp. Một nội dung mang tính quyết định của Nghị quyết số 66-NQ/TW là việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban. Thành phần tham gia Ban Chỉ đạo có đại diện lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan.

Việc đặt công tác hoàn thiện thể chế, pháp luật dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí thư thông qua cơ chế Ban Chỉ đạo Trung ương thể hiện định hướng chính trị mang tính quyết định. Công tác này được nâng lên thành nhiệm vụ hàng đầu của toàn hệ thống chính trị, vượt ra khỏi phạm vi cải cách hành chính thông thường. Điều này bảo đảm tính thống nhất và hiệu lực trong việc thể chế hóa các chủ trương, đặc biệt là trong bối cảnh những phức tạp của thể chế kinh tế hiện đại đòi hỏi sự đồng thuận chính trị ở cấp cao nhất. Cơ chế này khắc phục được sự chậm trễ và thiếu đồng bộ giữa cơ quan lập pháp (Quốc hội) và cơ quan hành pháp (Chính phủ) trong quá trình soạn thảo, giải quyết triệt để “điểm nghẽn” thể chế đã tồn tại.

Thứ ba, đầu tư cho nguồn nhân lực pháp luật chuyên nghiệp. Nghị quyết 66-NQ/TW đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người, yêu cầu: “Phải có chính sách đặc thù, vượt trội cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật; ưu tiên thu hút, trọng dụng nhân tài pháp lý”. Ngoài ra, Nghị quyết cũng yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan của Quốc hội cần cơ cấu ít nhất một lãnh đạo có chuyên môn pháp luật. Yêu cầu này cho thấy, nhận thức sâu sắc rằng chất lượng lập pháp bền vững phải dựa trên nguồn nhân lực chuyên nghiệp. Tuy nhiên, dù chính sách thu hút nhân tài pháp lý đã được đặt ra rõ ràng trong Nghị quyết số 66-NQ/TW, nhưng việc thể chế hóa và triển khai nội dung này vẫn còn chậm, chưa tạo được động lực mạnh mẽ. Sự chậm trễ trong việc xây dựng cơ chế đặc thù cho nguồn nhân lực pháp luật là rào cản lớn đối với việc nâng cao chất lượng lập pháp, đặc biệt trong các khâu đòi hỏi chuyên môn cao như phân tích chính sách và kỹ thuật lập pháp.

2.2. Căn cứ pháp lý

Nền tảng pháp lý cho sự đổi mới quy trình lập pháp là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 19/02/2025, có hiệu lực ngày 01/4/2025) và Luật số 87/2025/QH15 ngày 25/6/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực 01/7/2025) chứa đựng những cải cách mang tính bước ngoặt đã mang lại những thay đổi lớn về quy trình, thủ tục và trách nhiệm, cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Một là, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã tách biệt quy trình xây dựng chính sách khỏi quy trình quy phạm hóa, đã thực hiện cải cách đột phá bằng cách tách quy trình xây dựng chính sách ra khỏi quy trình lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết. Giai đoạn xây dựng chính sách, bao gồm việc hoạch định và đánh giá tác động, được yêu cầu thực hiện độc lập và đầy đủ, trước khi lập Chương trình lập pháp hằng năm.

Sự tách biệt này phản ánh việc chuyên nghiệp hóa lập pháp theo kinh nghiệm tiên tiến của nhiều quốc gia (như: Canada, Nhật Bản), bước hoạch định chính sách có vai trò quyết định chất lượng dự án luật sau này. Bằng cách đầu tư đủ nguồn lực vào khâu chính sách, giai đoạn quy phạm hóa chính sách (soạn thảo kỹ thuật) sẽ giảm tải đáng kể thời gian và chi phí; đồng thời, bảo đảm tính nhất quán về ngôn ngữ và kỹ thuật soạn thảo. Đây là một bước đi để tăng cường chất lượng đầu vào của quy trình lập pháp.

Hai là, đổi mới quy trình lập Chương trình lập pháp và tăng tốc độ lập pháp:Để tăng tính linh hoạt và chủ động, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã chuyển thẩm quyền quyết định Chương trình lập pháp hằng năm từ Quốc hội sang Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trên cơ sở tờ trình đề xuất của chủ thể có thẩm quyền. Thay đổi này giúp loại bỏ quy trình rườm rà trước đây, tăng cường khả năng phản ứng chính sách kịp thời của cơ quan lập pháp. Hơn nữa, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã quy định các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết cơ bản được xem xét, thông qua tại 1 kỳ họp Quốc hội hoặc 1 phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây là nỗ lực cụ thể hóa yêu cầu tăng tốc độ thể chế hóa, bảo đảm các đột phá chiến lược không bị trì hoãn bởi quy trình lập pháp kéo dài.

Ba là, tăng cường trách nhiệm và phạm vi của pháp luật:Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 bổ sung hình thức nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật, mở rộng công cụ pháp lý cho Chính phủ trong điều hành. Theo tư duy mới về xây dựng pháp luật, các luật của Quốc hội chỉ quy định những vấn đề mang tính khung, nguyên tắc, những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ thì không đưa vào luật mà để Chính phủ quy định. Theo đó, Điều 45 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 64/2025 quy định: “Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương”; đồng thời, Luật đã bổ sung quy định về tổ chức thi hành, hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Quy định này là bước tiến lớn, gắn kết chặt chẽ xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật, buộc cơ quan soạn thảo phải tính toán khả năng thực thi, xác định rõ trách nhiệm và nguồn lực cần thiết ngay từ giai đoạn chính sách, khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng về trách nhiệm thực hiện, hướng tới một hệ thống pháp luật không chỉ hợp hiến, hợp pháp mà còn khả thi và hiệu lực.

2.3. Căn cứ thực tiễn

Mặc dù có những cải cách pháp lý mạnh mẽ, thực tiễn công tác lập pháp vẫn còn những tồn tại, bất cậpcần được giải quyết triệt để.Cụ thể:

(1) Thách thức về chất lượng đầu vào quy trình. Chất lượng của giai đoạn hoạch định chính sách và đánh giá tác động vẫn là một thách thức lớn. Hiện nay, chất lượng đánh giá tác động văn bản quy phạm pháp luật (Regulatory Impact Assessment – RIA) chưa cao, thiếu tính định lượng và cần sửa đổi triệt để các quy định liên quan. RIA là khâu then chốt của giai đoạn xây dựng chính sách; nếu khâu này yếu kém, các dự án luật sẽ thiếu tính khả thi, thiếu cơ sở dữ liệu để đưa ra các giải pháp phù hợp hoặc không lường trước được hết các tác động đa chiều lên xã hội. Bên cạnh đó, nhu cầu nâng cao chất lượng công tác thẩm định của Bộ Tư pháp và thẩm tra của cơ quan Quốc hội là rất cấp thiết. Sự phức tạp của các vấn đề pháp lý trong kỷ nguyên số đòi hỏi cơ quan thẩm định phải có năng lực chuyên môn sâu rộng hơn để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính đồng bộ của hệ thống.

(2) Rào cản công nghệ trong quy trình lấy ý kiến. Một mâu thuẫn lớn trong kỷ nguyên chuyển đổi số là sự tụt hậu về công nghệ trong quy trình lấy ý kiến xây dựng pháp luật. Thực tiễn cho thấy, việc tổng hợp và xử lý khối lượng lớn ý kiến góp ý dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là một thách thức lớn đối với cơ quan chủ trì soạn thảo. Ý kiến thường được gửi bằng bản giấy hoặc định dạng điện tử (PDF), dẫn đến việc phải đánh máy lại nội dung để tổng hợp vào báo cáo giải trình. Quá trình này mất rất nhiều thời gian và công sức. Sự chậm chạp này không chỉ làm giảm hiệu quả công việc mà còn hạn chế khả năng phân tích sâu rộng và kịp thời đối với ý kiến đóng góp. Đây là điểm nghẽn kỹ thuật cần được giải quyết bằng việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến, như; cơ sở dữ liệu véc-tơ (Vector Database), trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) để tự động hóa quá trình rà soát, phân tích và hệ thống hóa, bảo đảm tính dân chủ và tốc độ của quy trình lập pháp.

3. Giải pháp đổi mới quy trình xây dựng pháp luật

Đổi mới quy trình xây dựng luật là khâu then chốt của đổi mới thể chế. Phải chuyển từ tư duy “làm luật để quản lý” sang “xây dựng luật để phát triển”, lấy đổi mới thể chế làm đột phá chiến lược, theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Pháp luật phải mở đường, tháo gỡ, chứ không phải ràng buộc sự phát triển”. Để hiện thực hóa tinh thần đột phá của Nghị quyết 66-NQ/TW và các cải cách trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, cần phải triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, tập trung vào ba trụ cột chính: tổ chức và nguồn lực; quy trình kỹ thuật lập pháp; công nghệ và minh bạch.

3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức và nguồn lực

Một là, cần thể chế hóa chính sách đặc thù về nhân sự. Cần khẩn trương thể chế hóa các yêu cầu của Nghị quyết số 66-NQ/TW bằng cách ban hành các nghị định hoặc nghị quyết của Quốc hội/Chính phủ về cơ chế, chính sách tài chính và đãi ngộ đặc thù, vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài pháp lý. Công tác này cần bao gồm cả các cơ chế điều động, luân chuyển cán bộ pháp luật chất lượng cao giữa trung ương và địa phương cũng như giữa các cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp. Việc đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật phải được nhìn nhận đúng nghĩa là đầu tư cho phát triển quốc gia.

Hai là, chuyên nghiệp hóa hoạt động soạn thảo. Cần nghiên cứu thành lập hoặc kiện toàn các đơn vị chuyên trách hỗ trợ kỹ thuật quy phạm hóa chính sách. Đơn vị này phải độc lập với cơ quan chủ trì soạn thảo chính sách, chịu trách nhiệm chuẩn hóa ngôn ngữ pháp lý, kỹ thuật soạn thảo và bảo đảm tính nhất quán của hệ thống pháp luật. Sự tách biệt này cho phép chuyên gia chính sách tập trung vào tính hiệu quả và tác động của chính sách, trong khi chuyên gia lập pháp tập trung vào tính hợp hiến và kỹ thuật.

Ba là, tăng cường năng lực chỉ đạo thực hiện. Phát huy tối đa vai trò chỉ đạo, điều phối của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do Tổng Bí thư đứng đầu. Đồng thời, cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ với quy định rõ ràng về việc cơ quan trình dự án chịu trách nhiệm chủ trì trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự án. Điều này bảo đảm tính trách nhiệm và hiệu quả trong quá trình hoàn thiện dự thảo luật tại Quốc hội.

3.2. Nhóm giải pháp về quy trình kỹ thuật lập pháp

Thứ nhất, tăng cường chất lượng giai đoạn hoạch định chính sách. Yêu cầu các cơ quan chủ trì soạn thảo phải tập trung nguồn lực và thời gian thực hiện giai đoạn xây dựng chính sách độc lập, theo đúng tinh thần Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Cần sửa đổi triệt để các quy định về đánh giá tác động chính sách (RIA) theo hướng chuyên nghiệp hóa, đòi hỏi tính định lượng hóa tối đa và phân tích đa chiều (hệ thống pháp luật, kinh tế, xã hội, giới, thủ tục hành chính) với sự tham gia của các chuyên gia độc lập. Quá trình RIA phải là căn cứ khoa học bắt buộc trước khi lập đề nghị xây dựng luật.

Thứ hai, nâng cao tính hiệu quả của công tác thẩm định, thẩm tra. Cần tăng cường tính độc lập và khách quan của cơ quan thẩm định (Bộ Tư pháp) và thẩm tra (các Ủy ban của Quốc hội). Bộ Tư pháp cần tiếp tục hoàn thiện quy định về thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến những nội dung mới trong hoạt động này. Đặc biệt, cần thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Những cơ chế đặc biệt này phải được xây dựng dựa trên luận cứ chặt chẽ, cụ thể và minh bạch.

Thứ ba, chuẩn hóa quy trình tổ chức thi hành pháp luật. Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã bổ sung quy định về trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, Chính phủ cần khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn chi tiết, quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục, trách nhiệm và nguồn lực dành cho công tác tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Điều này giúp khắc phục triệt để tình trạng pháp luật ban hành nhưng thiếu tính khả thi hoặc không được triển khai đầy đủ trên thực tế.

3.3. Nhóm giải pháp về công nghệ và minh bạch

Một là, hiện đại hóa quy trình lấy ý kiến. Đây là giải pháp để giải quyết điểm nghẽn kỹ thuật trong khâu dân chủ hóa lập pháp. Cần triển khai nền tảng công nghệ thông tin quốc gia thống nhất, phục vụ hoạt động xây dựng pháp luật, đặc biệt là hệ thống tiếp nhận, phân loại và tổng hợp ý kiến góp ý thông minh. Ứng dụng AI và Vector Database là giải pháp then chốt để xử lý khối lượng lớn ý kiến, chuyển đổi từ dữ liệu phi cấu trúc (giấy, PDF) sang dữ liệu có cấu trúc, rút ngắn thời gian tổng hợp từ nhiều tuần xuống còn vài ngày hoặc vài giờ. Sự đổi mới này không chỉ bảo đảm tính hiệu quả mà còn tăng cường tính dân chủ và minh bạch trong quá trình lập pháp.

Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật thông minh. Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái trợ lý ảo (AI assistant) và cơ sở dữ liệu pháp luật thông minh. Hệ thống này sẽ phục vụ công tác rà soát, so sánh và phân tích quy định pháp luật, cung cấp cho các chuyên gia công cụ hữu hiệu để tra cứu, so sánh và phân tích các quy định một cách nhanh chóng và chính xác. Đây là yếu tố quan trọng để hỗ trợ việc bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Ba là, tăng cường minh bạch. Thực hiện việc công khai hóa hồ sơ dự án luật và báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến một cách đầy đủ và kịp thời trên Cổng Thông tin Điện tử của Chính phủ và Quốc hội. Tính minh bạch cao nhất trong quy trình lập pháp là tiền đề để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, củng cố lòng tin vào Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

4. Kết luận

Công cuộc đổi mới quy trình xây dựng pháp luật Việt Nam, được khởi xướng bởi Nghị quyết số 66-NQ/TW và thể chế hóa bởi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 là bước ngoặt chiến lược, tạo ra khuôn khổ pháp lý và chính trị cần thiết để chuyển đổi quy trình lập pháp Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, kiến tạo, pháp quyền và tiệm cận quốc tế. Những cải cách cốt lõi như việc nâng tầm chỉ đạo chính trị, tách bạch quy trình xây dựng chính sách khỏi quy trình quy phạm hóa, tăng tính linh hoạt của Chương trình lập pháp và bổ sung trách nhiệm tổ chức thi hành, đã giải quyết căn bản những điểm nghẽn về quy trình và trách nhiệm đã tồn tại lâu nay. Để các cải cách này phát huy tối đa hiệu quả trong thực tiễn, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực giải quyết những thách thức còn tồn tại, đặc biệt là trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và hiện đại hóa ứng dụng công nghệ trong lập pháp.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
3. Quốc hội (2025). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
4. Quốc hội (2025). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
5. Nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật – Cần sửa đổi quy định về đánh giá tác động văn bản. https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201312/nang-cao-chat-luong-xay-dung-va-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat-can-sua-doi-quy-dinh-ve-danh-gia-tac-dong-van-ban-293324/
6. Nhiều kinh nghiệm quốc tế có thể tham khảo về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. https://baophapluat.vn/nhieu-kinh-nghiem-quoc-te-co-the-tham-khao-ve-quy-trinh-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat-post539399.html
7. Cơ chế, chính sách đặc thù tạo đột phá trong xây dựng pháp luật phải có luận cứ chặt chẽ, cụ thể. https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=6949
8. Đổi mới đầu tư xây dựng pháp luật theo Nghị quyết 66-NQ/TW trong kỷ nguyên mới. https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2740
9. Ứng dụng công nghệ thông tin để lấy ý kiến, trả lời kiến nghị trong hoạt động xây dựng pháp luật. https://stp.quangngai.gov.vn/danh-muc-cot-phai/tin-tuc/chuyen-doi-so/ung-dung-cong-nghe-thong-tin-de-lay-y-kien-tra-loi-kien-nghi-trong-hoat-dong-xay-dung-phap-luat.html