Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc – Định hướng vận dụng trong bối cảnh hiện nay

TS. Phan Thị Cẩm Lai
Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo vệ chủ quyền biển đảo là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trước những biến động khó lường trên Biển Đông, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biển đảo vẫn có giá trị chỉ đạo thực tiễn sâu sắc. Bài viết tập trung làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền biển đảo; đồng thời, phân tích những chuyển biến trong bối cảnh mới tác động đến công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất một số định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc trong tình hình mới.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ quyền biển đảo, bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng, an ninh.

  1. Đặt vấn đề

Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài hơn 3.260 km, cùng hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; biển đã trở thành không gian sinh tồn, là một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc. Hiện nay, trong bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo càng trở nên cấp bách. Trong dòng chảy đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia vùng biển đảo càng có ý nghĩa sâu sắc. Tư tưởng của Người đã khẳng định giá trị bất biến của độc lập và chủ quyền, chỉ ra con đường đúng đắn khi kết hợp giữa phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường và giữ vững quốc phòng, an ninh. Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước luôn xem biển đảo là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia biển đảo

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề chủ quyền quốc gia là nguyên tắc chính trị nền tảng, là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và khát vọng trường tồn của dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”1. Lời khẳng định đó thể hiện ý chí sắt son về sự thống nhất non sông và khẳng định chủ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc trên đất liền, vùng trời và biển đảo.

Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò to lớn của biển đảo trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Người ví: “Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”2. Từ đó, Người đã đưa ra hình ảnh đất nước giản dị mà sâu sắc: “Đồng bằng là nhà mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không?… Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”3. Những chỉ dẫn ấy vừa dễ hiểu, vừa khẳng định vị trí chiến lược của biển đảo trong không gian sinh tồn và phát triển của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều lực lượng. Người khẳng định: “Rừng vàng, biển bạc là của ta, do nhân dân ta làm chủ”4. Theo Người, làm chủ biển cần phải gắn liền giữa hoạt động khai thác nguồn lợi với công tác bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Biển đảo là một phần máu thịt của đất nước, gắn liền với vận mệnh dân tộc. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển đảo là trách nhiệm thiêng liêng của mọi người Việt Nam, được tiếp nối qua từng thế hệ. Người chỉ rõ: “ta phải giáo dục cho đồng bào biết bảo vệ bờ biển… Nếu mình không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển”5. Bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc còn là trách nhiệm của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam. Người luôn căn dặn lực lượng Hải quân phải không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh và sức mạnh chiến đấu, luôn sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc.

Nhân dịp Hải quân nhân dân Việt Nam kỷ niệm 10 năm thành lập (ngày 11/8/1965), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới cán bộ, chiến sĩ toàn quân chủng. Trong bức thư, Người vừa biểu dương những thành tích đã đạt được, vừa nhấn mạnh yêu cầu chiến lược phải xây dựng lực lượng hải quân ngày càng vững mạnh, coi đó là nhân tố quyết định trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Người khẳng định: “…hải quân ta đã anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, bắn rơi máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng trời và vùng biển của Tổ quốc. Các chú đã nêu cao truyền thống anh hùng của dân tộc ta”6.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển đảo còn bao hàm nội dung đề cao sức mạnh quân sự gắn liền với vai trò của đại đoàn kết toàn dân. Người khẳng định, muốn phát triển và cải cách vùng biển hiệu quả phải dựa vào sức mạnh của Nhân dân, cần “Phải động viên, tổ chức, đoàn kết quần chúng. Lấy sức quần chúng mà vượt qua khó khăn”7, vì cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Người đã ví von tinh thần đoàn kết của Nhân dân vùng biển trong bảo vệ chủ quyền biển đảo của quốc gia qua hình ảnh giản dị mà sâu sắc “Một chiếc thuyền phải có người chèo, phải có người lái. Chỉ có người chèo không có người lái cũng không được. Cho nên, người chèo và người lái phải luôn đoàn kết với nhau”8. Đồng thời, Người nhấn mạnh: “Lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại mà phải tự lực cánh sinh”9. Đây là nguyên tắc chiến lược quan trọng, vì trong tình huống khẩn cấp, lực lượng và phương tiện tại chỗ của nhân dân sẽ kịp thời ứng phó, ngăn chặn hiệu quả mọi hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo trước khi có sự hỗ trợ của các lực lượng có liên quan.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Theo Người, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới. Vì vậy, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, trong đó có chủ quyền biển đảo cũng gắn liền với cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình và công lý. Người chủ trương “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vừa kiên định nguyên tắc độc lập, chủ quyền quốc gia, vừa nhạy bén trong đối ngoại để tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cần mở rộng hợp tác, giữ quan hệ hòa bình, không gây thù oán; đồng thời, làm cho thế giới hiểu rõ chính nghĩa và lập trường của Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển đảo. Người từng nói: “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”10. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển đảo là trách nhiệm của dân tộc Việt Nam gắn với nghĩa vụ quốc tế trong duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác trên các vùng biển trong khu vực và thế giới.

3. Bối cảnh mới và những thách thức đối với công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc

Thứ nhất, Biển Đông đang trở thành điểm nóng chiến lược trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị toàn cầu.

Biển Đông là tuyến hàng hải quốc tế quan trọng thứ hai thế giới sau Địa Trung Hải với khoảng 300 lượt tàu qua lại mỗi ngày. Trong đó, tàu chở dầu từ 5.000 tấn chiếm 50%, còn tàu trọng tải trên 30.000 tấn chiếm hơn 10%11. Vì vậy, khu vực này mang ý nghĩa chiến lược đối với an ninh, kinh tế và chính trị toàn cầu, đặc biệt với Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Năm 2016, hơn 64% tổng lượng hàng hải của Trung Quốc phải đi qua khu vực này, trong khi Nhật Bản có gần 42% hoạt động thương mại đường biển gắn liền với tuyến hàng hải Biển Đông12.

Biển Đông còn được xem là “kho dự trữ năng lượng” khổng lồ của thế giới. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) từng dự đoán trữ lượng khí đốt và dầu mỏ của Biển Đông tương đương 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày, thậm chí có tiềm năng vượt cả Trung Đông. Hiện nay, nhiều quốc gia ven Biển Đông, như: Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia và Thái Lan đều đẩy mạnh hoạt động khai thác dầu khí. Riêng Việt Nam có vùng biển rộng hơn 1 triệu km², trong đó 500.000 km² được đánh giá có triển vọng dầu khí13. Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng quốc gia Việt Nam, tổng trữ lượng dầu khí được phát hiện trên thềm lục địa Việt Nam ước tính vượt 1,5 tỷ mét khối quy dầu. Trong đó, khoảng 734 triệu mét khối là dầu thô và condensate, còn lại khoảng 798 tỷ mét khối là khí tự nhiên14. Trữ lượng dầu khí của Việt Nam chiếm khoảng 25% trữ lượng dưới đáy Biển Đông, đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia15.

Bên cạnh giá trị năng lượng, Biển Đông còn là không gian sinh thái kinh tế quan trọng với nguồn lợi thủy sản dồi dào, bảo đảm sinh kế cho hàng triệu cư dân ven biển. Biển Đông là vùng biển giàu tài nguyên sinh vật với gần 12.000 loài cư trú. Trong đó, có khoảng 6.000 loài động vật đáy, hơn 2.000 loài cá, trên 100 loài có giá trị kinh tế cao, cùng hàng trăm loài san hô và rong biển16. Nguồn tài nguyên phong phú này mang lại lợi ích lớn cho phát triển kinh tế biển, đặc biệt là ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản. Riêng vùng biển Việt Nam có hệ sinh thái rất đa dạng với khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, 1.647 loài giáp xác, 700 loài giun biển, 350 loài da gai, 150 loài hải miên và hơn 300 loài san hô17. Cục Thống kê Việt Nam cho biết, tổng trữ lượng nguồn lợi hải sản ở vùng biển Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 ước đạt khoảng 3,95 triệu tấn. Sản lượng khai thác ước tính khoảng 2,45 triệu tấn mỗi năm18.

Tuy nhiên, sự phong phú về tài nguyên kết hợp với vị trí giao thương huyết mạch khiến Biển Đông trở thành tâm điểm tranh chấp giữa các cường quốc. Trong những năm gần đây, tình hình Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp do các hành vi đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng. Những năm qua, Trung Quốc vẫn tiến hành xây dựng, bồi đắp và quân sự hóa trái phép tại nhiều đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đã triển khai máy bay chiến đấu J-11, JH-17 và tên lửa phòng không HQ-9 trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam19. Năm 2014, Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan HD 981 trái phép trong vùng biển của Việt Nam, làm gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ năm 2019 đến nay, Trung Quốc liên tục có các hành động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam như đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 và đội tàu hộ tống vào khu vực bãi Tư Chính (2019), huy động hàng trăm tàu áp sát đảo Sinh Tồn Đông (2021) và xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế bằng tàu Hướng Dương Hồng 10 (2023)20. Những hành động này cho thấy Trung Quốc nhiều lần vi phạm vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, đi ngược lại các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) và đe dọa trực tiếp hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

Trước bối cảnh đó, Biển Đông đang trở thành “mặt trận mềm” trong cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc. Hoa Kỳ và các đồng minh ngày càng tăng cường hiện diện hải quân và tiến hành các hoạt động tuần tra “tự do hàng hải” (FONOPs), trong khi Trung Quốc đẩy mạnh kiểm soát thực địa. Sự đối lập này khiến Biển Đông trở thành điểm nóng chiến lược của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Lợi ích đan xen giữa các nước, cùng với những hạn chế trong việc thực thi luật pháp quốc tế đang tạo nên một tình thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.

Thứ hai, thách thức từ các yếu tố phi truyền thống về biến đổi khí hậu, môi trường và khai thác cạn kiệt tài nguyên biển.

Trong khi an ninh, chủ quyền biển đảo chịu sức ép từ cạnh tranh địa chính trị, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách thức phi truyền thống, như: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường biển và khai thác tài nguyên thiếu bền vững. Dù không mang tính đối đầu vũ trang, những vấn đề này đang âm thầm đe dọa sự ổn định của không gian sinh tồn biển đảo, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế người dân, môi trường, quốc phòng và mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc gia chịu tác động nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo báo cáo của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, nếu mực nước biển dâng 80 cm sẽ có khoảng 31,94% diện tích vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ngập. Khi mực nước biển dâng 100 cm, diện tích ngập có thể lên tới gần 47,29%, riêng Cà Mau khoảng 79,62%21. Một số đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt là cụm Lưỡi Liềm và Tri Tôn.

Tình trạng ô nhiễm môi trường biển cũng ngày càng trầm trọng. Theo báo cáo năm 2020 của Liên minh quốc tế Bảo tồn thiên nhiên (IUCN), Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia có lượng rác thải nhựa đổ ra biển lớn nhất thế giới, với khối lượng ước tính từ 0,28 – 0,73 triệu tấn mỗi năm, chiếm khoảng 6% tổng lượng rác thải nhựa đại dương 22. Tại Diễn đàn thường niên về rác thải nhựa đại dương ngành thủy sản năm 2024, IUCN cho biết có đến 25/34 bãi biển của Việt Nam đã bị ô nhiễm nhựa. Các bãi biển phía Nam có lượng rác thải cao hơn rõ rệt so với miền Trung và miền Bắc, trong đó Nha Trang và Côn Đảo là những điểm chịu ô nhiễm nặng nhất. Tình trạng ô nhiễm nhựa gia tăng phản ánh những thách thức lớn trong quản lý chất thải rắn ven biển, đòi hỏi các giải pháp đồng bộ nhằm bảo vệ hệ sinh thái biển và phát triển kinh tế biển bền vững. Tài nguyên biển đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt do khai thác quá mức và thiếu kiểm soát. Theo Tổng cục Thủy sản Việt Nam, trữ lượng hải sản ven bờ Việt Nam đã giảm gần 30% chỉ trong một thập kỷ23, nhiều loài có giá trị cao như cá thu, cá ngừ, cá hồng đang suy giảm nghiêm trọng. Việc sử dụng ngư cụ hủy diệt, như: xung điện, chất nổ, lưới vét đáy và khai thác cát biển tràn lan vừa góp phần tàn phá môi trường đáy biển, vừa gây xói lở bờ, làm biến đổi cấu trúc tự nhiên của vùng biển và hải đảo.

Biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ khiến nhiều đảo, bãi đá bị ngập làm thay đổi ranh giới hàng hải. Từ đó, có thể gây bất lợi cho quá trình khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó, sự suy giảm tài nguyên và ô nhiễm biển có thể sẽ dẫn đến tranh chấp về nguồn lợi, gây nên những bất ổn sinh kế và tạo điều kiện cho các thế lực bên ngoài lợi dụng.

4. Một số định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo vệ chủ quyền biển đảo

Một là, cần tiếp tục quán triệt và thực hành sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong quan hệ đối ngoại. Trong các mối quan hệ quốc tế, cần linh hoạt trong phương pháp nhưng kiên định trong mục tiêu bảo vệ chủ quyền. Người luôn đề cao giải pháp hòa bình, xử lý mềm dẻo nhưng kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ “sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, bình đẳng không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hòa bình”24. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần kiên trì đấu tranh bằng biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông, tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế thông qua các diễn đàn đa phương, như: ASEAN, Liên Hợp quốc hay APEC.

Hai, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trên các vùng biển đảo. Người nhấn mạnh: “Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”25. Hiện nay, để phát huy sức mạnh đoàn kết của các lực lượng tham gia khai thác trên biển gắn phát triển kinh tế với giữ gìn quốc phòng, an ninh, cần đầu tư phát triển hơn nữa các mô hình “ngư dân tự quản”, “tổ đội đoàn kết bám biển”. Đồng thời, cần đẩy mạnh giáo dục lòng yêu nước và ý thức chủ quyền biển đảo cho thế hệ trẻ, để tinh thần hướng biển trở thành giá trị văn hóa bền vững trong xã hội.

Ba, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển bền vững và tinh thần tự lực, tự cường trong chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền. Người khẳng định: “Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”26. Trong bối cảnh hiện nay, đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế biển xanh như du lịch biển, cảng biển, kinh tế hàng hải hay năng lượng tái tạo sẽ tạo động lực tăng trưởng; đồng thời, góp phần khẳng định sự hiện diện hòa bình và hợp pháp của Việt Nam trên biển. Triển khai hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” chính là bước đi cụ thể nhằm kết hợp phát triển với bảo vệ chủ quyền trong giai đoạn mới.

Bốn là, cần phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ, tinh thần trách nhiệm và vai trò nêu gương của cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng chấp pháp, hải quân và cảnh sát biển. Người từng khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”27. Trong bối cảnh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay, cán bộ, chiến sĩ vừa đóng vai trò là lực lượng thực thi pháp luật, vừa là đại diện cho hình ảnh quốc gia trước cộng đồng quốc tế. Vì vậy, cần xây dựng lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển chính quy, tinh nhuệ, bản lĩnh, có đạo đức và ý chí kiên định trong mọi tình huống.

5. Kết luận

Trong bối cảnh Biển Đông còn tiềm ẩn nhiều thách thức, bảo vệ chủ quyền biển đảo theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vận dụng tư tưởng ấy, Việt Nam cần kiên định đường lối hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, đồng thời xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh. Mỗi người dân, nhất là thế hệ trẻ, phải ý thức sâu sắc rằng giữ biển là giữ nước, là bảo vệ tương lai dân tộc. Đó chính là cách thiết thực nhất để hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Chú thích:
1, 6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 532, 597.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.374.
3, 5, 7, 8, 9, 24. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 311, 311, 309, 310, 310, 12.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 504.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 346.
11, 16. Cẩm nang cung cấp thông tin về chủ quyền và tuyên truyền phát triển bền vững biển đảo Việt Nam. H. NXB Thông tin và Truyền thông, tr. 5, 4.
12. China Power: How much trade transits the South China Sea?. https://chinapower.csis.org/much-trade-transits-south-china-sea
13, 15. Việt Nam hợp tác khai thác dầu khí bền vững ở khu vực Biển Đông. https://vjst.vn/viet-nam-hop-tac-khai-thac-dau-khi-ben-vung-o-khu-vuc-bien-dong-57983.html
14. Thăm dò, khai thác dầu khí: Cần có cơ chế, chính sách phù hợp. https://www.pvn.vn/tham-do-khai-thac-dau-khi-can-co-co-che-chinh-sach-phu-hop-16059
17. Vai trò của Biển Đông đối với các nước có tuyên bố chủ quyền, khu vực và thế giới hiện nay. https://canhsatbien.vn/nghien-cuu-trao-doi/3884/87
18. Phát triển thủy sản theo hướng bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2024. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/phat-trien-thuy-san-theo-huong-ben-vung-o-viet-nam-giai-doan-2016-2024/
19. Quân sự hóa các đảo – Mưu đồ và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Introduce&aID=590
20. Hoạt động của dân quân biển Trung Quốc tại Biển Đông từ sau Đại hội XX đến nay. https://nghiencuuchienluoc.org/hoat-dong-cua-dan-quan-bien-trung-quoc-tai-bien-dong-tu-sau-dai-hoi-xx-den-nay/
21. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021). Kịch bản biến đổi khí hậu. H. NXB Tài nguyên – Môi trường, tr. 102, 104.
22. Nỗi lo rác thải biển. https://provietnam.com.vn/tin-tuc/noi-lo-rac-thai-bien/
23. Khai thác và nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. https://tapchicongthuong.vn/khai-thac-va-nuoi-trong-thuy-san-o-viet-nam–thuc-trang-va-giai-phap-139025.htm
25, 26. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 55, 114.
27. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 280.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2022). Đề cương tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo năm 2022.
3. Bộ Quốc phòng (2020). Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.