Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

TS. Vương Toàn Thắng
ThS. Đỗ Thị Tuyết
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc thực thi hiệu quả chính sách an sinh xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần cải thiện đời sống nhân dân và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách vẫn còn tồn tại hạn chế, bất cập về quản lý, nguồn lực và nhận thức xã hội. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Chính sách; an sinh xã hội; nâng cao hiệu quả; Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, chính sách an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước xác định là một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững. Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần bảo đảm ổn định đời sống của Nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực thi các chính sách này vẫn còn những hạn chế,như: nguồn lực phân bổ chưa thực sự đồng đều, hiệu quả quản lý chưa cao, một số đối tượng chính sách chưa được tiếp cận đầy đủ quyền lợi… Trong bối cảnh biến động kinh tế – xã hội, già hóa dân số và tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, việc nâng cao hiệu quả thực thi chính sách an sinh xã hội là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm quyền con người, củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

2. Vai trò của chính sách an sinh xã hội đối với sự phát triển bền vững

“An sinh xã hội là một hệ thống chính sách và giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân”1. Mục tiêu của chính sách an sinh xã hội là bảo đảm đời sống an toàn, ổn định cho mọi người dân; hỗ trợ, bảo vệ các nhóm yếu thế; giảm thiểu rủi ro, bất bình đẳng xã hội; góp phần duy trì an ninh xã hội, ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững của đất nước.

Trong bối cảnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vai trò của chính sách an sinh xã hội càng trở nên rõ nét và có ý nghĩa chiến lược đối với mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Thứ nhất, chính sách an sinh xã hội góp phần bảo đảm ổn định xã hội và phát triển con người. Thông qua các chương trình, như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, giảm nghèo bền vững, Nhà nước đã tạo điều kiện để mọi người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế được bảo vệ trước những rủi ro của đời sống. Điều này không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội mà còn tạo ra tâm lý yên tâm, tin tưởng vào chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm sự ổn định chính trị – xã hội lâu dài.

Thứ hai, chính sách an sinh xã hội là công cụ quan trọng để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Việc triển khai các chính sách hỗ trợ người nghèo, người có công, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn hay đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, như: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch. Qua đó, an sinh xã hội không chỉ hướng đến việc “giúp người dân thoát nghèo” mà còn giúp họ “thoát nghèo bền vững”, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.

Thứ ba, chính sách an sinh xã hội còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững thông qua việc phát huy nguồn lực con người và củng cố niềm tin của Nhân dân. Khi người lao động được bảo vệ về mặt xã hội, họ sẽ yên tâm cống hiến, gắn bó với công việc, góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đồng thời, chính sách an sinh xã hội hiệu quả cũng giúp Nhà nước chủ động ứng phó với các rủi ro kinh tế – xã hội, giảm thiểu tác động tiêu cực của biến động thị trường, dịch bệnh hay thiên tai.

3. Thực trạng chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay 

Trong những năm gần đây, chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần ổn định đời sống của Nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững và thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ngày càng được hoàn thiện và đồng bộ hơn. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng, như: Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ emcùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Các chính sách này thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc lấy con người làm trung tâm của phát triển, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực xã hội. Nhờ đó, cơ chế quản lý, điều hành các chính sách an sinh xã hội ngày càng minh bạch, thống nhất và hiệu quả hơn, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội trong giai đoạn mới.

Mạng lưới an sinh xã hội được mở rộng bao phủ trên phạm vi rộng, hướng đến mọi tầng lớp nhân dân. Các chương trình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất đã bao phủ tới hầu hết nhóm đối tượng yếu thế. Tính đến hết tháng 8/2024, toàn quốc có trên 18,742 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, tăng 8,79% so cùng kỳ năm 2023. Trong đó, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 16,889 triệu người, tăng 6,83%; tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 1,852 triệu người, tăng 30,65% so cùng kỳ năm 2023. Về số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, toàn quốc có 15,175 triệu người; tăng 7,61% so cùng kỳ năm 2023. Số người tham gia bảo hiểm y tế là 92,972 triệu người; tăng 1,64% so cùng kỳ năm 20232. Đặc biệt, chỉ số bao phủ dịch vụ y tế thiết yếu của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực3. Các chương trình giảm nghèo bền vững, hỗ trợ việc làm, dạy nghề và trợ giúp người có công tiếp tục được thực hiện đồng bộ, giúp cải thiện rõ rệt mức sống của người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Chất lượng dịch vụ an sinh xã hội ngày càng được nâng cao, gắn kết chặt chẽ hơn với phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Công tác chi trả, hỗ trợ và cung cấp dịch vụ ngày càng được hiện đại hóa thông qua chuyển đổi số, giúp người dân tiếp cận nhanh chóng, thuận tiện và minh bạch. Các chương trình nhà ở xã hội, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ người yếu thế trong xã hội được triển khai hiệu quả, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào chính sách của Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.  

Một là, phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của các chính sách an sinh xã hội còn thấp4; các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu của Nhân dân5. Một bộ phận người lao động, nhất là lao động phi chính thức, nông dân và người dân vùng sâu, vùng xa vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ an sinh cơ bản, như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội. Việc mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện còn gặp khó khăn do thu nhập thấp, nhận thức hạn chế và chính sách hỗ trợ chưa đủ hấp dẫn. 

Hai là, mức hỗ trợ và hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của người dân. Nhiều chế độ trợ cấp xã hội mang tính “cứu trợ tối thiểu” chưa đủ giúp người hưởng vượt qua khó khăn hay tái hòa nhập cộng đồng. Nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực an sinh vẫn còn hạn chế, phân bổ dàn trải, thiếu trọng tâm dẫn đến hiệu quả sử dụng ngân sách chưa cao. Một số chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chưa theo kịp biến động của thị trường lao động và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

Ba là, công tác quản lý, tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội vẫn còn bất cập. Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành trong việc triển khai còn thiếu đồng bộ; tình trạng chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ vẫn diễn ra. Công tác giám sát, kiểm tra và đánh giá hiệu quả chính sách chưa được thực hiện thường xuyên, minh bạch. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dữ liệu an sinh xã hội chưa đồng bộ, gây khó khăn trong việc theo dõi, tổng hợp và hỗ trợ người dân kịp thời.

4. Một số giải pháp

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về an sinh xã hội.

Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách về an sinh xã hội ở Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm mọi người dân đều được tiếp cận các quyền cơ bản, giảm thiểu rủi ro và bất bình đẳng xã hội. 

(1) Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý thống nhất, đồng bộ về an sinh xã hội. Hệ thống pháp luật cần được rà soát, sửa đổi và bổ sung theo hướng bao quát đầy đủ các lĩnh vực, như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi người có công, giảm nghèo bền vững… Việc hoàn thiện pháp luật phải bảo đảm tính thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Cần đặc biệt chú trọng xây dựng các quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong quá trình thực thi chính sách, bảo đảm công bằng, minh bạch và hiệu quả.

(2) Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm mở rộng diện bao phủ và nâng cao chất lượng các chương trình an sinh xã hội. Các chính sách cần hướng đến mục tiêu bao phủ toàn dân, đặc biệt quan tâm đến các nhóm yếu thế, như: người nghèo, lao động phi chính thức, người dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Cần đổi mới cách thức hỗ trợ theo hướng linh hoạt, phù hợp từng nhóm đối tượng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát và chi trả trợ cấp để bảo đảm công khai, minh bạch, giảm thiểu tiêu cực. Đồng thời, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp cần được điều chỉnh theo hướng hấp dẫn hơn, tạo động lực để người dân chủ động tham gia, qua đó, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

(3) Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội và khu vực tư nhân trong thực thi chính sách an sinh xã hội. Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế điều phối liên ngành, tránh chồng chéo, trùng lặp chức năng giữa các bộ, ngành; đồng thời, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư vào các hoạt động an sinh. Việc huy động nguồn lực xã hội hóa, kết hợp giữa chính sách của Nhà nước và sáng kiến của cộng đồng sẽ tạo nên mạng lưới an sinh bền vững, linh hoạt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế của người dân.

Thứ hai, tăng cường nguồn lực tài chính và đầu tư cho hệ thống an sinh xã hội.

Nhà nước cần tiếp tục ưu tiên bố trí ngân sách cho lĩnh vực an sinh xã hội theo hướng ổn định, dài hạn và hiệu quả. Việc lập kế hoạch ngân sách phải dựa trên dự báo chính xác về nhu cầu chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, y tế, giáo dục, nhà ở… Đồng thời, cần tăng tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh trong tổng chi công, đặc biệt là ở các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, nơi người dân còn ít cơ hội tiếp cận chính sách. 

Song song với đó, phải nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tránh dàn trải, thất thoát, bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý, giám sát chi tiêu cho các chương trình an sinh xã hội. Ngoài ra, cần đẩy mạnh quản lý, giám sát và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho an sinh xã hội. Nhà nước phải hoàn thiện cơ chế kiểm toán, thanh tra, giám sát độc lập để bảo đảm các nguồn tài chính được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và mang lại hiệu quả thiết thực. Đồng thời, ứng dụng công nghệ số trong quản lý tài chính an sinh sẽ giúp minh bạch hóa quá trình thu – chi, giảm tiêu cực, tăng niềm tin của người dân và các bên liên quan.

Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách Nhà nước. Cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ, việc huy động đóng góp của doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân có khả năng là rất quan trọng. Cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực an sinh, như: bảo hiểm, y tế, giáo dục, dạy nghề, thông qua cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng hoặc hợp tác công – tư (PPP). Bên cạnh đó, cần mở rộng các quỹ xã hội, quỹ từ thiện, quỹ hỗ trợ người nghèo, bảo trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật… để tăng tính cộng đồng, nhân văn và tính chia sẻ trong xã hội.

Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ, công chức.

Các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước về an sinh xã hội phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng hoạch định, giám sát và đánh giá chính sách. Cán bộ, công chức cần được trang bị kiến thức toàn diện về hệ thống an sinh, từ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội đến giảm nghèo bền vững nhằm nâng cao khả năng tham mưu và xử lý công việc trong thực tiễn. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý cũng là yêu cầu cấp thiết, giúp số hóa quy trình, giảm thủ tục hành chính, tăng tính minh bạch và kịp thời trong cung cấp dịch vụ công. Song song, cần có cơ chế kiểm tra, đánh giá định kỳ năng lực, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, coi đây là tiêu chí quan trọng để khen thưởng, bổ nhiệm hay kỷ luật, qua đó tạo động lực cho họ làm việc hiệu quả, trách nhiệm và tận tâm hơn.

Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý an sinh xã hội.

Cần tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội, bảo đảm liên thông, đồng bộ và kết nối với các hệ thống dữ liệu khác, như: bảo hiểm xã hội, y tế, lao động, hộ tịch, dân cư. Việc hình thành kho dữ liệu thống nhất sẽ giúp các cơ quan quản lý dễ dàng tra cứu, đối chiếu, cập nhật thông tin, hạn chế tình trạng trùng lặp, sai sót hoặc gian lận trong thụ hưởng chính sách. Đồng thời, dữ liệu số hóa còn là nền tảng quan trọng để hoạch định chính sách an sinh xã hội phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn, qua đó, nâng cao tính chính xác và hiệu quả trong quá trình thực hiện.

Ngoài ra, cần tăng cường ứng dụng các công nghệ mới trong hoạt động quản lý, cung cấp và giám sát chính sách an sinh xã hội. Các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh triển khai các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao trong lĩnh vực an sinh xã hội, tạo điều kiện để người dân dễ dàng đăng ký, tra cứu, nhận hỗ trợ và phản ánh vướng mắc qua môi trường mạng mà không cần tiếp xúc trực tiếp. Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và công nghệ chuỗi khối (Blockchain) có thể giúp tự động hóa quy trình, giảm thiểu thời gian xử lý hồ sơ; đồng thời, nâng cao tính bảo mật, minh bạch và ngăn ngừa tiêu cực trong quá trình thực hiện. Song song với đó, cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác an sinh xã hội, giúp họ thích ứng nhanh với yêu cầu quản lý hiện đại và nâng cao năng lực phục vụ Nhân dân.

Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và sự tham gia của người dân.

Cần đổi mới và đa dạng hóa hình thức, nội dung tuyên truyền chính sách an sinh xã hội. Các cơ quan quản lý nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội, phương tiện thông tin đại chúng cần tăng cường phối hợp trong việc truyền tải thông tin về chính sách đến người dân một cách rõ ràng, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Việc tuyên truyền không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu chính sách mà còn phải hướng đến việc nâng cao hiểu biết, thay đổi nhận thức, hình thành ý thức tự giác tham gia các chương trình an sinh như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội… Hình thức tuyên truyền cần phong phú, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng; kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa tuyên truyền qua báo chí, truyền hình với mạng xã hội, cổng thông tin điện tử, ứng dụng số. Cán bộ cơ sở, đặc biệt là cấp xã, thôn, bản cần được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền, tư vấn để trực tiếp hướng dẫn, giải đáp thắc mắc cho người dân.

Phát huy vai trò chủ thể của người dân trong quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội. Nhà nước không thể bao quát toàn bộ nhu cầu an sinh nếu thiếu đi sự tham gia tích cực từ người dân và cộng đồng. Cần khuyến khích người dân chủ động đăng ký, giám sát việc thực thi chính sách tại địa phương; đồng thời, xây dựng cơ chế phản hồi, tiếp nhận ý kiến, đề xuất của người dân nhằm điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tiễn. Bên cạnh đó, cần nhân rộng các mô hình tự quản, các câu lạc bộ, tổ tương trợ xã hội, quỹ hỗ trợ cộng đồng… nhằm tạo mạng lưới an sinh bền vững, gắn kết giữa Nhà nước và nhân dân. Khi người dân được trang bị đầy đủ thông tin, được lắng nghe và tham gia vào quá trình thực thi, chính sách an sinh xã hội sẽ thực sự đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng xã hội công bằng, văn minh và phát triển bền vững.

5. Kết luận

Hiện nay, bối cảnh kinh tế – xã hội có nhiều biến động, các chính sách an sinh xã hội cần được triển khai đồng bộ, linh hoạt và phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng đối tượng. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; tăng cường nguồn lực đầu tư; nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số; đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và sự tham gia của người dân. Khi các giải pháp được triển khai một cách khoa học và thực chất, chính sách an sinh xã hội sẽ thực sự trở thành trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng một xã hội nhân văn, công bằng, tiến bộ và không để ai bị bỏ lại phía sau.

Chú thích:

1. Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (2016). Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 18.

2. Bảo đảm chính sách an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau. https://nhandan.vn/bao-dam-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-khong-de-ai-bi-bo-lai-phia-sau-post899345.html

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

4, 5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Tài liệu tham khảo:

1. Thực hiện chính sách xã hội bao trùm, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới.https://tcnn.vn/news/detail/69495/Thuc-hien-chinh-sach-xa-hoi-bao-trum-ben-vung–trong-ky-nguyen-phat-trien-moi.html

2. Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1001102/thuc-hien-chinh-sach-xa-hoi%2C-bao-dam-an-sinh-va-phuc-loi-xa-hoi-trong-tinh-hinh-moi.aspx

7. Vai trò bảo đảm an sinh xã hội đối với người lao động. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/04/25/vai-tro-bao-dam-an-sinh-xa-hoi-doi-voi-nguoi-lao-dong

8. Vai trò của Nhà nước trong chính sách an sinh xã hội kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-kinh-nghiem-va-bai-hoc-cho-viet-nam-48427.htm