Thách thức trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam hiện nay

Nguyễn Phương Thảo
Trường Đại học Thương mại

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao và thực trạng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thách thức của quá trình này, từ đó đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ, bao gồm: hoàn thiện chính sách đãi ngộ và hỗ trợ tài chính; đổi mới giáo dục – đào tạo theo hướng thực tiễn; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, đồng thời xây dựng môi trường làm việc hấp dẫn hơn ở khu vực nông thôn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.

Từ khóa: Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, ngành Nông nghiệp, hoàn thiện chính sách.

1. Một số vấn đề lý luận về thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp

Nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp được hiểu là lực lượng lao động có kiến thức chuyên sâu về kỹ thuật, công nghệ nông nghiệp hiện đại; có kỹ năng vận hành, quản lý quy trình sản xuất tiên tiến; đồng thời có năng lực tổ chức, kết nối thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển đổi số. Việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp là hoạt động tạo lập môi trường, điều kiện và cơ hội phát triển để kêu gọi, sử dụng, giữ chân đội ngũ cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, người lao động trình độ cao tham gia vào sản xuất, quản lý, nghiên cứu, khởi nghiệp hoặc đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp.

Các hoạt động cần thực hiện nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào ngành Nông nghiệp bao gồm:

(1) Hoàn thiện chính sách – thể chế thông qua việc ban hành các chính sách ưu đãi về tài chính, lương thưởng và chế độ đãi ngộ tốt nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và khen thưởng người tài trong lĩnh vực nông nghiệp.

(2) Đổi mới giáo dục – đào tạo theo hướng thực tiễn, ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp bền vững. Việc đào tạo phải gắn liền với nhu cầu thực tế của ngành, cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngoài ra, cần có các chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng cho nhân lực đang hoạt động trong ngành.

(3) Xây dựng môi trường làm việc và điều kiện sống bảo đảm cơ sở hạ tầng tại nông thôn, như: điện, nước, mạng internet, y tế, giáo dục,… đáp ứng nhu cầu cơ bản cho người lao động. Ngoài ra, hoạt động phát triển các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp số cũng sẽ tạo ra một môi trường làm việc chuyên nghiệp, hiện đại và hấp dẫn.

(4) Các hoạt động về truyền thông và định hướng xã hội cần làm tốt việc nâng cao hình ảnh của ngành Nông nghiệp trong xã hội, đặc biệt là đối với giới trẻ. Việc tổ chức các chiến dịch truyền thông, hội chợ nghề nghiệp, chương trình giao lưu khởi nghiệp nông nghiệp sẽ khuyến khích sinh viên và trí thức trẻ tham gia vào ngành.

(5) Hoạt động hợp tác quốc tế và liên kết đa ngành cần được đẩy mạnh đặc biệt là hợp tác với các tổ chức quốc tế như FAO, IFAD, JICA để đào tạo và sử dụng nhân lực. Bên cạnh đó cần có hoạt động tăng cường mô hình hợp tác công – tư (PPP) để thu hút nhân lực chất lượng cao tham gia vào các dự án nông nghiệp bền vững.

Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là yếu tố cốt lõi mà còn đóng vai trò quyết định đối với sự chuyển dịch của nền nông nghiệp Việt Nam từ mô hình sản xuất truyền thống sang mô hình phát triển hiện đại, hiệu quả và bền vững. Bối cảnh hiện nay đặt ra yêu cầu bắt buộc đối với ngành Nông nghiệp là phải tái cơ cấu toàn diện, thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng thì vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng và là yếu tố quyết định, cụ thể là:

Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng chủ lực trong việc thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật và ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp. Những người lao động này không chỉ vận hành tốt các thiết bị công nghệ cao mà còn có khả năng đánh giá, lựa chọn và điều chỉnh công nghệ sao cho phù hợp với điều kiện sinh thái – kinh tế – xã hội cụ thể của từng vùng sản xuất. Ngoài ra, sự am hiểu sâu về những kiến thức của ngành cùng với khả năng sử dụng linh hoạt các công cụ số hóa (như cảm biến, hệ thống tưới thông minh, dữ liệu vệ tinh, phân tích Big Data…) giúp cho các hoạt động nông nghiệp trở nên chính xác, tiết kiệm tài nguyên và giảm rủi ro. Đây là nền tảng quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp đạt năng suất cao và phát triển bền vững.

Hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý chuỗi giá trị nông sản. Những người lao động có kiến thức chuyên môn và tư duy tổ chức tốt có thể tham gia vào tất cả các khâu của chuỗi – từ sản xuất, chế biến, phân phối đến tiêu thụ – nhằm bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, giảm thất thoát, tăng giá trị và mở rộng thị trường. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, khả năng xây dựng thương hiệu, kiểm soát chất lượng và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế chính là điểm tựa để nông sản Việt Nam có thể thâm nhập và đứng vững trên thị trường thế giới đặc biệt là cả những thị trường khó tính. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao ở đây không chỉ nằm ở khía cạnh kỹ thuật mà còn ở kỹ năng quản trị, tư duy chiến lược và khả năng kết nối thị trường.

Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng tiên phong trong hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Ngày càng có nhiều trí thức trẻ lựa chọn con đường lập nghiệp trong nông nghiệp với những mô hình kinh doanh sáng tạo như nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, hay ứng dụng thương mại điện tử trong tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm đầu ra bảo đảm cho sản phẩm nông sản của mình. Những mô hình này không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mới mà còn góp phần hình thành hệ sinh thái nông nghiệp sáng tạo, thu hút thêm nguồn lực xã hội đầu tư vào ngành. Đáng chú ý, các sáng kiến do nguồn nhân lực chất lượng cao khởi xướng thường mang tính tiên phong, có khả năng lan tỏa, nhân rộng, tạo động lực thúc đẩy sự thay đổi tư duy sản xuất trong toàn ngành.

Bốn là, nguồn nhân lực chất lượng cao còn là cầu nối quan trọng trong hợp tác quốc tế và chuyển giao tri thức toàn cầu vào ngành Nông nghiệp Việt Nam. Với trình độ ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp tốt, họ có thể tiếp cận với các mô hình nông nghiệp tiên tiến trên thế giới, tham gia các chương trình đào tạo, nghiên cứu chung hoặc chuyển giao công nghệ từ các tổ chức quốc tế. Thông qua đó, ngành Nông nghiệp Việt Nam không chỉ được tiếp cận với tri thức và công nghệ mới mà còn học hỏi được kinh nghiệm trong quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất và phát triển bền vững. Đặc biệt, sự tham gia của lực lượng này còn giúp nâng cao hình ảnh và vị thế của nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.

Phát triển và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những giải pháp trọng tâm để nâng cao năng lực nội tại và khả năng cạnh tranh của ngành Nông nghiệp. Trong thời gian tới, để ngành Nông nghiệp thực sự trở thành trụ cột của nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và nông thôn mới thì việc đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao cần được xem là ưu tiên hàng đầu trong hoạch định và xây dựng chính sách phát triển đất nước.

2. Thực trạng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp

2.1. Thành tựu

Trong bối cảnh tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực nông nghiệp đã đạt được một số thành tựu đáng kể.

Thứ nhất, thể chế và chính sách nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp được hoàn thiện theo hướng ngày càng hiệu quả và thực tế.

Các chủ trương của Đảng và Nhà nước đã xác định rõ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt của chuyển đổi nông nghiệp hiện đại, thể hiện trong Nghị quyết số 19-NQ/TW (2022) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương đã ban hành hàng loạt cơ chế khuyến khích như chính sách ưu tiên tuyển dụng, hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất, cũng như chế độ đãi ngộ đặc thù cho nhân lực làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Các chính sách này bước đầu tạo dựng được môi trường pháp lý thuận lợi, góp phần khơi dậy động lực cống hiến, nhất là trong đội ngũ kỹ sư nông nghiệp, chuyên gia nghiên cứu và cán bộ quản lý nông nghiệp trẻ.

Về chế độ đãi ngộ cho nhân lực làm việc tại nông thôn, miền núi trước đây còn mang tính hỗ trợ nhỏ lẻ; nay đã có những chính sách thí điểm cho phép trả lương theo dự án, sử dụng chuyên gia tư vấn, kỹ thuật viên trình độ cao tham gia mô hình chuyên canh chất lượng cao (ví dụ như chính sách tại vùng đồng bằng sông Cửu Long). Một trong những thành tựu nổi bật là việc thí điểm cơ chế hỗ trợ lương tại cơ sở, đặc biệt thông qua mô hình “cử nhân nông nghiệp về hợp tác xã”. Chẳng hạn, tại tỉnh Sơn La, từ năm 2021, địa phương đã triển khai chính sách trả lương tối thiểu vùng cho cán bộ trẻ có trình độ đại học, cao đẳng ngành Nông nghiệp làm việc tại các hợp tác xã nông nghiệp đi kèm hỗ trợ đào tạo kỹ năng và cơ hội được giữ lại làm việc sau thời gian thí điểm. Về các chính sách hợp tác quốc tế như JICA (Nhật Bản), IFAD, hay Dự án “Lúa gạo thông minh tại An Giang” giai đoạn 2022 – 2025 cho phép chi trả thù lao cho cán bộ kỹ thuật, tư vấn địa phương theo chuẩn quốc tế.

Những bước thay đổi này đã góp phần tạo “hạt nhân thể chế” cho việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao: có cơ chế rõ hơn về tuyển dụng, sử dụng, thù lao và khen thưởng. Thành tựu ở khía cạnh này không chỉ là “có chính sách” mà là “chính sách đang vận hành theo hướng hiệu quả hơn” – một điều kiện cần để thu hút nhân sự có trình độ cao.

Thứ hai, hệ thống đào tạo và bồi dưỡng nhân lực cho ngành Nông nghiệp từng bước được đổi mới theo hướng gắn kết với nhu cầu thực tiễn.

Các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm chuyển giao công nghệ đã đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp và hợp tác quốc tế nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Mô hình “3 nhà” (nhà trường – nhà nước – nhà doanh nghiệp) được triển khai rộng rãi giúp người học có cơ hội tiếp cận công nghệ mới, thực hành trong môi trường sản xuất hiện đại.

Hiện nay, một số cơ sở đào tạo lớn, như: Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh… đã bắt đầu dịch chuyển chương trình đào tạo theo hướng ứng dụng: tích hợp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, quản trị chuỗi giá trị và kỹ năng khởi nghiệp vào giảng dạy. Theo Kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp giai đoạn 2022 – 2025 (Quyết định 3685/QĐ-BNN-KTHT ngày 29/9/2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), mục tiêu đào tạo sơ cấp và thường xuyên cho lao động nông thôn là lớn với chỉ tiêu tổng hợp lên tới khoảng 910.400 người phân bổ cho các địa phương. Tỷ lệ có việc làm sau đào tạo đạt trên 70%, phản ánh rõ vai trò của giáo dục nghề trong việc nâng cao chất lượng nhân lực tại chỗ. Ngoài ra, các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế – đặc biệt với Nhật Bản, Israel, Hàn Quốc – vẫn đang đóng vai trò quan trọng cho nhiều kỹ sư trẻ tiếp cận kỹ thuật và tư duy nông nghiệp hiện đại, từ đó góp phần hình thành lực lượng kế cận có tư duy toàn cầu.

Tuy mới chỉ là những bước khởi đầu nhưng giáo dục và đào tạo đang tạo ra bước chuyển đổi quan trọng trong hành trình làm mới bộ mặt nhân lực ngành Nông nghiệp Việt Nam.

Thứ ba, thu nhập và điều kiện làm việc trong khu vực nông nghiệp đã được cải thiện đáng kể, từng bước nâng cao sức hấp hẫn của ngành đối với nhân lực chất lượng cao.

Nhờ ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp tăng ổn định qua các năm, kéo theo thu nhập của lao động trong lĩnh vực này được cải thiện rõ rệt. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thu nhập bình quân của lao động nông thôn năm 2024 đạt khoảng 4,6 triệu đồng/tháng, tăng 1,4 lần so với năm 2020. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, tập đoàn chế biến xuất khẩu lớn đã áp dụng chế độ lương, thưởng và phúc lợi cạnh tranh, tạo điều kiện cho kỹ sư, chuyên gia trẻ phát huy năng lực, gắn bó lâu dài với ngành. Điển hình là các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, như: VinEco, Nafoods, TH True Milk đã chủ động tạo ra môi trường làm việc hấp dẫn với mức lương và chế độ đãi ngộ tốt nhằm thu hút người lao động có trình độ cao vào làm việc và nghiên cứu. Các mô hình trang trại kiểu mẫu, ứng dụng công nghệ cao ngày càng xuất hiện nhiều, tạo ra sức hút đối với lực lượng lao động trẻ. Ngoài ra, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng tại nông thôn như: điện, nước, internet, y tế, giáo dục đào tạo… đã được chú trọng hơn, điều này cũng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.

Sự cải thiện này giúp ngành Nông nghiệp không còn đơn thuần bị nhìn nhận là “vất vả – thu nhập thấp” như trước đây mà đang dần trở thành lựa chọn nghề nghiệp có triển vọng hơn đối với nhân lực chất lượng cao.

Thứ tư, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trở thành động lực mới thu hút nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp.

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030 đã mở ra không gian phát triển mới cho nhân lực công nghệ thông tin, tự động hóa, logistics và quản trị chuỗi giá trị trong nông nghiệp. Nhiều startup nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp trẻ đã hình thành, thu hút đội ngũ kỹ sư, chuyên gia trẻ về trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu, sinh học ứng dụng… tham gia phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp thông minh, góp phần tái định hình ngành Nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ 4.0.

Ngoài ra, các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp do các cơ quan, như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Trung ương Đoàn tổ chức đã góp phần lan tỏa tinh thần đổi mới, sáng tạo trong giới trẻ nông nghiệp. Điều này không chỉ tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút nhân tài mà còn khích lệ các mô hình kinh doanh sáng tạo. Bên cạnh đó, các sự kiện như hội chợ nghề nghiệp và chương trình giao lưu khởi nghiệp nông nghiệp đã được tổ chức nhằm khuyến khích sinh viên và trí thức trẻ tham gia vào ngành. Những hoạt động thường niên này đang dần thay đổi nhận thức cũ về nông nghiệp, xây dựng hình ảnh một ngành kinh tế hiện đại, sạch, sáng tạo và có tương lai phát triển. Chính những tấm gương về doanh nhân trẻ thành công trong nông nghiệp và các mô hình khởi nghiệp điển hình đã được nêu bật, tạo nguồn cảm hứng và động lực mạnh mẽ cho thế hệ trẻ.

Thứ năm, hợp tác quốc tế và liên kết đa ngành đã đóng góp tích cực cho việc nâng cao chất lượng và mở rộng cơ hội nghề nghiệp cho nhân lực nông nghiệp.

Về hợp tác quốc tế, nhiều chương trình thực tập, đào tạo, chuyển giao công nghệ đã được triển khai giúp nhân lực nông nghiệp Việt Nam tiếp cận kiến thức, kỹ thuật và mạng lưới quốc tế. Điều này làm tăng sức hấp dẫn nghề nghiệp trong ngành Nông nghiệp, đặc biệt với những người trẻ, có trình độ và có cơ hội phát triển toàn cầu.

Hoạt động gửi thực tập sinh và kỹ sư nông nghiệp ra nước ngoài học tập và làm việc trong môi trường công nghệ cao được xem là bước đi hiệu quả để hình thành lớp lao động có tư duy toàn cầu. Các chương trình hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản, Israel, Hàn Quốc trong đào tạo kỹ sư nông nghiệp đã được triển khai từ nhiều năm nay và không ngừng mở rộng.

Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mỗi năm, Việt Nam cử khoảng 700 sinh viên ngành Nông nghiệp tham gia chương trình thực tập 11 tháng tại Israel, tập trung vào các lĩnh vực canh tác công nghệ cao, quản lý trang trại và nông nghiệp bền vững. Nhiều người trong số đó sau khi trở về nước đã khởi nghiệp hoặc trở thành chuyên gia kỹ thuật tại các doanh nghiệp nông nghiệp lớn trong nước. Không chỉ vậy, các dự án hợp tác kỹ thuật giữa Việt Nam và các tổ chức quốc tế, như: FAO, IFAD, JICA, ADB… là một hình thức “thu hút bằng vị trí làm việc thực tế”, gắn đào tạo quốc tế với sử dụng nhân lực tại chỗ – một mô hình rất phù hợp với bối cảnh hiện nay của Việt Nam.

Ngoài ra, các chương trình học bổng quốc tế cho ngành Nông nghiệp cũng đang có xu hướng gia tăng như MEXT (Nhật Bản), KOICA (Hàn Quốc), hay học bổng Erasmus+ (EU) đã tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên, cán bộ nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam học tập ở nước ngoài. Bên cạnh đó, một số mô hình hợp tác công – tư (PPP) giữa doanh nghiệp nước ngoài và các địa phương cũng bước đầu tạo cơ hội nghề nghiệp rõ ràng cho người lao động có trình độ.

2.2. Hạn chế

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho nông nghiệp, song nhìn chung quá trình này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cơ bản, thể hiện ở cả tầm vĩ mô (thể chế, chính sách) và tầm vi mô (môi trường việc làm, năng lực cá nhân và định hướng xã hội).

Một là, hệ thống chính sách thu hút và sử dụng nhân lực trong nông nghiệp còn thiếu tính đồng bộ, thiếu tầm chiến lược dài hạn và chưa thực sự tạo được sức hút đủ lớn.

Các chính sách ưu đãi hiện nay chủ yếu được ban hành ở cấp địa phương, mang tính ngắn hạn, chưa có cơ chế quốc gia thống nhất để điều phối và đánh giá hiệu quả. Nhiều chính sách vẫn dừng ở mức hỗ trợ tài chính nhỏ lẻ (hỗ trợ tiền thuê nhà, phụ cấp thu hút), chưa đủ hấp dẫn so với các ngành nghề khác. Ngoài ra, cơ chế trả lương, khen thưởng, thăng tiến cho nhân lực nông nghiệp công nghệ cao còn rườm rà, cứng nhắc và phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, khiến việc giữ chân nhân tài gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các chính sách khuyến khích trí thức trẻ về nông thôn tuy có ý nghĩa xã hội nhưng lại thiếu cơ chế gắn kết lâu dài, dẫn đến tình trạng “đi – ở – lại đi”, khi phần lớn cán bộ trẻ rời bỏ ngành sau khi kết thúc thời gian hỗ trợ. Điều này phản ánh rõ hạn chế về tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp.

Hai là, chất lượng đào tạo nhân lực nông nghiệp chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn và xu thế công nghệ mới.

Dù đã có bước chuyển hướng sang đào tạo ứng dụng nhưng nhìn chung chương trình giảng dạy tại nhiều trường đại học, cao đẳng, cơ sở nghề vẫn nặng về lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới, như: nông nghiệp số, tự động hóa, logistics nông sản và quản trị chuỗi giá trị. Sự kết nối giữa “ba nhà” – nhà trường, nhà doanh nghiệp và nhà nông còn yếu, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng, doanh nghiệp thiếu lao động phù hợp, trong khi người nông dân lại khó tiếp cận tri thức mới. Theo khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn năm 2023, chỉ khoảng 27% sinh viên tốt nghiệp ngành Nông nghiệp có việc làm đúng chuyên ngành trong năm đầu tiên, cho thấy sự lệch pha rõ rệt giữa đào tạo và nhu cầu thị trường lao động.

Ba là, môi trường làm việc và điều kiện sống tại khu vực nông thôn, miền núi, nơi tập trung chủ yếu hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ xã hội và tiện ích sinh hoạt ở nhiều vùng sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu của người lao động có trình độ cao. Thiếu khu làm việc tập trung, thiếu nhà ở xã hội, điều kiện y tế – giáo dục hạn chế khiến nhiều kỹ sư, cán bộ trẻ dù yêu nghề nhưng không thể gắn bó lâu dài. Thu nhập bình quân trong ngành dù có cải thiện (năm 2024 đạt 4,6 triệu đồng/tháng theo Tổng cục Thống kê) nhưng vẫn thấp hơn 30 – 40% so với mức bình quân của khu vực công nghiệp – dịch vụ. Chính sự chênh lệch này khiến nông nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trong việc thu hút nhân lực chất lượng cao.

Bốn là, cơ cấu nghề nghiệp và lộ trình thăng tiến trong ngành Nông nghiệp còn mờ nhạt, chưa hình thành được hệ sinh thái nghề nghiệp hấp dẫn.

Trong khi các lĩnh vực công nghệ, tài chính, năng lượng có hệ thống đánh giá năng lực, chuẩn nghề nghiệp và lộ trình phát triển rõ ràng thì ngành Nông nghiệp vẫn thiếu khung chuẩn vị trí việc làm cho nhân lực trình độ cao. Các mô hình doanh nghiệp nông nghiệp lớn – nơi có thể tạo môi trường học hỏi và phát triển còn ít, quy mô nhỏ, phân tán, thiếu đầu tư vào nghiên cứu – phát triển (R&D). Do đó, người lao động giỏi thường coi nông nghiệp chỉ là “bước đệm nghề nghiệp”, thay vì “sự nghiệp lâu dài”.

Năm là, hoạt động truyền thông, tư vấn hướng nghiệp và xây dựng hình ảnh ngành Nông nghiệp còn yếu, chưa khơi dậy được niềm tự hào nghề nghiệp trong giới trẻ.

Các chiến dịch truyền thông về nông nghiệp hiện vẫn tập trung vào sản xuất và kết quả kinh tế, chưa chú trọng tới yếu tố nhân lực và tri thức. Điều này khiến ngành Nông nghiệp bị gắn với hình ảnh “công việc vất vả, ít sáng tạo”, trong khi các lĩnh vực như công nghệ, dịch vụ lại được xem là “năng động và hiện đại”. Hậu quả là số lượng sinh viên đăng ký vào các ngành học nông nghiệp liên tục giảm. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong giai đoạn 2018 – 2023, số lượng thí sinh đăng ký vào nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp giảm hơn 20%. Đây là tín hiệu cảnh báo về sức hấp dẫn giảm sút của ngành đối với thế hệ lao động tương lai.

Sáu là, cơ chế hợp tác quốc tế và kết nối giữa đào tạo – nghiên cứu – ứng dụng còn phân tán, thiếu sự điều phối thống nhất.

Nhiều chương trình hợp tác với các tổ chức quốc tế, như: JICA, IFAD, FAO, KOICA… chủ yếu mang tính dự án ngắn hạn, chưa được tích hợp vào chiến lược quốc gia về phát triển nhân lực nông nghiệp. Việc thiếu cơ quan điều phối trung ương khiến các nguồn lực quốc tế bị chia nhỏ, trùng lặp và khó lan tỏa hiệu quả. Ngoài ra, chưa có cơ chế khuyến khích đủ mạnh để nhân lực được đào tạo ở nước ngoài quay trở lại làm việc trong nước dẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám” tiềm ẩn.

Tổng thể, những hạn chế trên không chỉ làm suy giảm sức hấp dẫn của ngành Nông nghiệp trong thị trường lao động mà còn cản trở tiến trình hiện đại hóa, chuyển đổi số và phát triển bền vững của ngành. Việc nhận diện rõ và khắc phục các hạn chế này là điều kiện tiên quyết để xây dựng chiến lược thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao hiệu quả, gắn liền với tái cơ cấu nền nông nghiệp trong giai đoạn tới.

3. Những thách thức của quá trình thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp

Ngoài các hạn chế mà ngành Nông nghiệp đang gặp phải, quá trình thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào ngành Nông nghiệp hiện nay còn đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ cả môi trường khách quan lẫn sự chuyển dịch sâu rộng của thị trường lao động.

Thứ nhất, áp lực cạnh tranh nhân lực từ các ngành Công nghiệp, dịch vụ và khu vực đô thị đang gia tăng mạnh mẽ. Trong khi các ngành nghề khác không ngừng đổi mới, đầu tư về môi trường làm việc, lộ trình thăng tiến rõ ràng và thu nhập cao, thì ngành Nông nghiệp lại khó theo kịp về tốc độ và sự chuyển đổi, dẫn đến nguy cơ bị thu hút nhân lực giỏi sang các lĩnh vực khác. Đặc biệt, sự thay đổi về nhận thức nghề nghiệp của thế hệ trẻ – với xu hướng đề cao giá trị cá nhân, trải nghiệm hiện đại và nhu cầu cân bằng cuộc sống – đang tạo ra áp lực mới cho ngành Nông nghiệp, một lĩnh vực vốn gắn với không gian nông thôn và nhịp sống truyền thống. Nếu không cải tiến mạnh mẽ về phương thức tổ chức sản xuất, quản trị lao động và truyền thông ngành nghề, nông nghiệp sẽ tiếp tục mất lợi thế trong việc thu hút nhân tài so với những ngành, nghề khác.

Thứ hai, chuyển đổi số và công nghệ cao trong nông nghiệp tuy được đẩy mạnh nhưng vẫn còn manh mún và chưa thực sự lan tỏa đến các vùng sản xuất truyền thống. Điều này làm giảm động lực của nhân lực trẻ yêu thích sáng tạo và công nghệ, vốn là lực lượng quan trọng cần thu hút trong bối cảnh chuyển đổi mô hình phát triển nông nghiệp hiện đại.

Thứ ba, những biến động về kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp khiến ngành Nông nghiệp phải đối mặt với mức độ rủi ro cao hơn các lĩnh vực khác. Người lao động chất lượng cao thường có xu hướng lựa chọn những môi trường làm việc ổn định và ít bất định hơn dẫn đến việc thu hút và giữ chân nhân tài cho nông nghiệp trở nên khó khăn hơn.

Thứ tư, mặc dù có một số mô hình hợp tác quốc tế hiệu quả nhưng chưa có cơ chế quốc gia đủ mạnh để liên kết và điều phối các chương trình đào tạo, thực tập, chuyển giao công nghệ với mục tiêu phát triển nhân lực bền vững. Điều này dẫn đến tình trạng mất cân đối cung – cầu và khó tận dụng tối đa lợi ích từ hợp tác quốc tế.

4. Giải pháp tháo gỡ những khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong nông nghiệp

4.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Nông nghiệp trên thị trường lao động

Để gia tăng sức hút của ngành Nông nghiệp, cần xây dựng hệ thống chính sách đãi ngộ nhân lực chất lượng cao có tính ổn định và dài hạn, đặc biệt đối với các vị trí làm việc tại địa bàn nông thôn, miền núi, vùng khó khăn. Cơ chế tiền lương, phụ cấp, thưởng theo hiệu quả công việc cần được thiết kế linh hoạt, cạnh tranh, lâu dài gắn với mức độ đóng góp và cam kết làm việc tối thiểu. Cần hình thành các “quỹ phát triển nhân lực nông nghiệp” tại địa phương, các chính sách khuyến khích người lao động đổi mới, sáng tạo gắn với chế độ khen thưởng, vinh danh kịp thời, tương xứng nhằm thu hút nhân tài, hỗ trợ đào tạo và giữ chân người lao động có trình độ cao.

Ngoài ra, cần chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các khu vực sản xuất nông nghiệp, bao gồm hệ thống giao thông, điện, nước, y tế, giáo dục, nhà ở và hạ tầng số. Song song với đó, các địa phương nên quy hoạch các khu làm việc tập trung cho lao động trẻ, tích hợp đầy đủ tiện ích sinh hoạt, kết nối kỹ thuật số và dịch vụ công cộng.

Việc thúc đẩy phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới, doanh nghiệp nông nghiệp sáng tạo gắn với chuỗi giá trị, không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn tạo dựng được môi trường nghề nghiệp ổn định, có khả năng thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao trong dài hạn tạo được thế cân bằng trong việc thu hút nhân tài so với những lĩnh vực khác.

4.2. Đẩy mạnh chuyển đổi số và phổ cập công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp

Việc mở rộng ứng dụng công nghệ số vào các lĩnh vực sản xuất, chế biến, phân phối và truy xuất nguồn gốc nông sản cần được xem là nhiệm vụ xuyên suốt trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao điển hình tại các xã theo từng mặt hàng nông sản thế mạnh của vùng, nhằm tạo ra môi trường làm việc chuyên nghiệp, hiện đại và hấp dẫn cho nhân lực trẻ.

Song song, cần triển khai các chương trình đào tạo kỹ năng số, năng lực sử dụng dữ liệu, vận hành thiết bị thông minh cho lực lượng lao động đang làm việc trong ngành, góp phần nâng cao năng suất và khả năng thích ứng với các mô hình sản xuất mới. Để làm được điều đó cần có sự đầu tư mạnh mẽ cho hệ thống cơ sở hạ tầng tại nông thôn, mời các chuyên gia đầu ngành hướng dẫn, đào tạo và chuyển giao công nghệ cụ thể, hiệu quả.

4.3. Thiết lập cơ chế bảo vệ thu nhập và giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp trong nông nghiệp

Trước đặc thù rủi ro cao của ngành Nông nghiệp, việc hoàn thiện hệ thống bảo hiểm nông nghiệp toàn diện là giải pháp cốt lõi để bảo vệ thu nhập và ổn định đời sống cho người lao động. Cần xây dựng các công cụ tài chính phù hợp như quỹ bảo hiểm rủi ro thu nhập, bảo hiểm thời tiết, bảo hiểm mùa vụ nhằm hạn chế thiệt hại do biến động khí hậu, dịch bệnh và thị trường.

Ngoài ra, việc phát triển hệ thống cảnh báo sớm và phân tích dữ liệu thời tiết, giá cả thị trường cũng cần được quan tâm đầu tư, giúp người lao động và doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất, từ đó giảm bớt gánh nặng rủi ro nghề nghiệp. Để hạn chế thực trạng nông sản của người nông dân được mùa mất giá, mất mùa được giá thì việc tìm kiếm đầu ra ổn định là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.

4.4. Phát triển cơ chế phối hợp hiệu quả trong hợp tác quốc tế về đào tạo và sử dụng nhân lực

Để khai thác hiệu quả các chương trình hợp tác quốc tế, cần thành lập trung tâm điều phối quốc gia về đào tạo và thực tập nông nghiệp quốc tế. Trung tâm này sẽ có chức năng tư vấn, tuyển chọn, theo dõi quá trình học tập, hỗ trợ tái hòa nhập sau khi người học hoàn thành chương trình, đồng thời liên kết với các doanh nghiệp và địa phương để sử dụng nhân lực sau đào tạo. Ngoài ra, cần có chính sách công nhận kinh nghiệm quốc tế như một tiêu chí ưu tiên trong tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo động lực quay về làm việc tại Việt Nam sau khi du học.

Việc thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Nông nghiệp không thể đạt hiệu quả nếu chỉ dừng ở các biện pháp ngắn hạn, rời rạc. Các giải pháp cần được triển khai đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và người lao động. Trọng tâm là tạo dựng môi trường nghề nghiệp ổn định, thu nhập cạnh tranh và điều kiện sống thuận lợi tại khu vực nông thôn; đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số, hiện đại hóa sản xuất và bảo đảm an sinh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, việc mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo và đổi mới truyền thông hướng nghiệp sẽ góp phần hình thành đội ngũ nhân lực nông nghiệp năng động, sáng tạo, có tri thức và năng lực thích ứng với kinh tế nông nghiệp hiện đại. Khi các nhóm giải pháp này được thực thi một cách nhất quán và hiệu quả, nông nghiệp Việt Nam sẽ có nền tảng vững chắc để phát triển bền vững và gia tăng sức cạnh tranh trong giai đoạn mới.

5. Kết luận

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, hiện đại, bền vững, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào ngành Nông nghiệp vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Mặc dù đã đạt được một số kết quả tích cực như cải thiện chính sách đãi ngộ, nâng cao cơ sở hạ tầng, mở rộng hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và từng bước đổi mới đào tạo, song ngành Nông nghiệp vẫn đối diện với nhiều trở ngại từ chính sách chưa đủ sức cạnh tranh, khoảng cách giữa kiến thức đào tạo và thực tiễn, điều kiện sống – làm việc ở nông thôn còn hạn chế, cho đến tác động của biến đổi khí hậu và sự thay đổi trong kỳ vọng nghề nghiệp của thế hệ trẻ.

Để vượt qua những rào cản này, cần triển khai đồng bộ các giải pháp mang tính dài hạn và thực tiễn, kết hợp giữa hoàn thiện thể chế, nâng cấp hạ tầng, hiện đại hóa sản xuất, đổi mới công tác truyền thông và nâng cao chất lượng đào tạo gắn với nhu cầu thị trường. Quan trọng hơn, quá trình này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và cộng đồng, qua đó hình thành môi trường nghề nghiệp hấp dẫn, giàu cơ hội và đủ sức cạnh tranh để giữ chân cũng như phát huy tối đa tiềm năng của đội ngũ nhân lực chất lượng cao, góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, xanh và hội nhập.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2023). Báo cáo thường niên ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2023.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2022). Quyết định số 3685/QĐ-BNN-KTHT ngày 20/9/2022 về kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp giai đoạn 2022-2025.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2024). Niên giám thống kê nông nghiệp Việt Nam 2024, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2023). Báo cáo thống kê tuyển sinh đại học, cao đẳng giai đoạn 2018-2023, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới.
6. Chính phủ (2021). Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
7. Tổng cục Thống kê (2024). Báo cáo lao động – việc làm quý IV năm 2024, Hà Nội.
8. Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD) (2023). Đánh giá thực trạng nhân lực và nhu cầu đào tạo trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.
9. Học viện Nông nghiệp Việt Nam (2023). Báo cáo tự đánh giá chương trình đào tạo ngành Nông nghiệp công nghệ cao.
10. Nguyễn Văn Tuấn (2022). Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 318 (9/2022), tr. 45 – 50.