Quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội – từ thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai

ThS. Trịnh Phạm Phương Thanh
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai

(Quanlynhanuoc.vn) – Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội luôn được coi là vấn đề trung tâm trong quá trình phát triển bền vững. Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cho thấy, tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất cho tiến bộ xã hội, trong khi tiến bộ xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế. Bài viết phân tích sự thống nhất cũng như những mâu thuẫn nảy sinh giữa phát triển kinh tế nhanh và yêu cầu công bằng xã hội, an sinh, bảo vệ môi trường, đặc biệt sau sáp nhập tại tỉnh Đồng Nai, từ đó, đề xuất một số định hướng nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng bền vững.

Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế; tiến bộ xã hội; quan hệ biện chứng; phát triển bền vững; tỉnh Đồng Nai.

1. Đặt vấn đề

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống nhân dân”1. Đây không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là mục tiêu và động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Đồng Nai là một trong những tỉnh công nghiệp trọng điểm của cả nước, có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa cao, nhiều năm liền duy trì vị thế xuất siêu. Trong giai đoạn 2020 – 2025, đặc biệt sau khi hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật về kinh tế – xã hội. Trong 9 tháng đầu năm 2025, quy mô kinh tế và dân số sau sáp nhập được mở rộng, tạo nền tảng mới cho phát triển toàn diện của địa phương. Sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính, Đồng Nai có diện tích tự nhiên hơn 12.700 km², dân số khoảng 4,5 triệu người, gồm 95 đơn vị hành chính cấp xã (72 xã và 23 phường)2. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng nhanh cũng kéo theo nhiều thách thức về tiến bộ xã hội, như: áp lực đời sống công nhân, nhu cầu nhà ở xã hội, khoảng cách giàu nghèo và vấn đề môi trường sinh thái. Điều này cho thấy định hướng “kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng và tiến bộ” của Đảng vẫn đang trong quá trình được hiện thực hóa toàn diện.

Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu, phân tích sâu sắc và biện chứng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội ở tỉnh Đồng Nai. Kết quả nghiên cứu không chỉ góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội mà còn cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định chính sách phát triển bền vững của địa phương.

2. Cơ sở lý luận về quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội

Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về quy mô sản lượng xã hội trong một thời kỳ nhất định, được phản ánh qua sự tăng trưởng của các chỉ tiêu, như: GDP, GRDP, thu nhập quốc dân và năng suất lao động. Đây là chỉ số quan trọng phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, là cơ sở để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tiến bộ xã hội là quá trình phát triển đi từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái khác cao hơn nhằm hoàn thiện bản chất con người cả về vật chất lẫn tinh thần3. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: chủ nghĩa xã hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, là làm sao cho Nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ… – một quan niệm vừa giản dị, vừa thể hiện bản chất nhân văn của tiến bộ xã hội4. Tiến bộ xã hội không chỉ biểu hiện ở sự cải thiện đời sống vật chất mà còn bao hàm sự phát triển toàn diện về văn hóa, giáo dục, y tế, bảo đảm bình đẳng xã hội, công bằng trong phân phối, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó, tiến bộ xã hội được xem là tiêu chí quan trọng phản ánh hiệu quả, chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế5.

Quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội thể hiện trên nhiều phương diện. Một mặt, tăng trưởng kinh tế là điều kiện, tiền đề vật chất để đạt được tiến bộ xã hội. Chỉ khi sản xuất phát triển, của cải vật chất được tạo ra dồi dào, xã hội mới có đủ nguồn lực đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Mặt khác, tiến bộ xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế. Một xã hội công bằng, ổn định, có nguồn nhân lực chất lượng cao và phúc lợi xã hội được bảo đảm sẽ tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và qua đó hình thành động lực cho tăng trưởng bền vững.

Hai yếu tố này có mối quan hệ vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Sự thống nhất thể hiện ở chỗ cả tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội đều hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người. Đảng ta nhiều lần nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển” 6. Đây chính là cơ sở lý luận để xem xét thực tiễn Đồng Nai trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, mâu thuẫn phát sinh khi quá trình phát triển mất cân đối: nếu chỉ chạy theo tăng trưởng kinh tế mà coi nhẹ tiến bộ xã hội có thể dẫn đến bất bình đẳng, khủng hoảng xã hội và suy thoái môi trường; ngược lại, nếu đề cao các yêu cầu xã hội vượt quá điều kiện kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển. Đây chính là mâu thuẫn nội tại tất yếu trong quá trình phát triển, phản ánh tính hai mặt của quy luật biện chứng giữa tăng trưởng và tiến bộ. Chính mâu thuẫn này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh và kết hợp hài hòa để đạt tới phát triển bền vững.

3. Thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai

Trong giai đoạn 2020 – 2025, đặc biệt sau khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, quy mô dân số và địa bàn kinh tế – xã hội của Đồng Nai được mở rộng, tạo nền tảng phát triển toàn diện. Dù bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động, cạnh tranh chiến lược gia tăng và thị trường tài chính – tiền tệ nhiều rủi ro, Đồng Nai vẫn duy trì đà tăng trưởng tích cực nhờ sự lãnh đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng nỗ lực của doanh nghiệp và Nhân dân. Theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh Đồng Nai, tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sau sáp nhập, GRDP 9 tháng đầu năm 2025 (theo giá so sánh 2010) tăng 8,86% so với cùng kỳ, xếp thứ 10 cả nước. Trong đó, công nghiệp – xây dựng tăng 10,32%; dịch vụ tăng 8,95%; nông – lâm – thủy sản tăng 4,10%. Quy mô kinh tế (theo giá hiện hành) đạt 489.029,55 tỷ đồng, tăng 13,79% so với cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp – dịch vụ: nông – lâm – thủy sản chiếm 12,7%; công nghiệp – xây dựng chiếm 54,6%; dịch vụ chiếm 26,3%; thuế sản phẩm chiếm 6,45%. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực chủ lực với mức tăng giá trị tăng thêm 9,44%; ngành xây dựng tăng 19,33% nhờ hàng loạt dự án hạ tầng, đô thị và nhà ở xã hội được triển khai sau sáp nhập7.

Tính đến hết tháng 9/2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 14,03%, với nhiều ngành tăng mạnh, như: sản xuất kim loại (+22,48%), sản phẩm cao su – nhựa (+21,01%), chế biến thực phẩm (+8,38%). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 134.211,3 tỷ đồng, tăng 34,48% so với cùng kỳ, trong đó: vốn ngân sách nhà nước đạt 17.642,2 tỷ đồng (tăng 60,6%, chiếm 13,14%); vốn khu vực ngoài nhà nước đạt 51.487,9 tỷ đồng (tăng 43,46%, chiếm 38,36%); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 45.782,2 tỷ đồng (tăng 18,8%, chiếm 32,05%). Thu ngân sách đạt 58.486 tỷ đồng, bằng 83% dự toán, dự kiến cả năm vượt mốc 100.000 tỷ đồng – kỷ lục mới của địa phương. Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 22,5 tỷ USD, nhập khẩu khoảng 16 tỷ USD, xuất siêu 6,5 tỷ USD – năm thứ 10 liên tiếp dẫn đầu cả nước về xuất siêu8.

Sau sáp nhập, dân số Đồng Nai đạt hơn 4,49 triệu người, trong đó lao động nhập cư chiếm tỷ trọng lớn, gây áp lực về việc làm, nhà ở, giáo dục, y tế và hạ tầng đô thị. Khoảng cách giàu nghèo giữa đô thị và nông thôn có xu hướng gia tăng; vấn đề môi trường và sử dụng đất bền vững trở thành thách thức trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh. Tuy nhiên, song song với những thách thức, Đồng Nai cũng đạt được nhiều tiến bộ xã hội quan trọng, góp phần củng cố nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Công tác giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội được chú trọng; các hoạt động văn hóa – thể thao phát triển mạnh, trong đó Lễ hội Gốm và Kinh khí cầu Đồng Nai 2025 thu hút đông đảo Nhân dân và du khách. Hệ thống hạ tầng chiến lược, đặc biệt là các tuyến cao tốc và dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành đang dần hình thành, mở rộng không gian phát triển, khẳng định vai trò trung tâm của Đồng Nai trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Thực tiễn phát triển giai đoạn 2020 – 2025 phản ánh rõ mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế tạo nguồn lực cho đầu tư xã hội, trong khi tiến bộ xã hội trở thành động lực nội sinh thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, mâu thuẫn vẫn tồn tại giữa tốc độ phát triển nhanh và yêu cầu công bằng, bền vững đòi hỏi địa phương tiếp tục điều chỉnh chính sách để hướng tới phát triển kinh tế xanh, bao trùm và hài hòa.

Những kết quả này khẳng định, tăng trưởng kinh tế của Đồng Nai mang tính toàn diện và lan tỏa, nhưng đi kèm với nhiều vấn đề xã hội bức thiết. Áp lực dân số, việc làm, nhà ở xã hội, trường học, dịch vụ y tế và hạ tầng đô thị gia tăng, đặc biệt đối với nhóm công nhân nhập cư. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư ngày càng rõ nét, trong khi vấn đề môi trường và sử dụng đất bền vững nổi lên như thách thức lớn trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Đây cũng là những vấn đề mà Văn kiện Đại hội của Đảng đã chỉ rõ: phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập, chất lượng dịch vụ xã hội chưa đồng đều, môi trường văn hóa, đạo đức còn những biểu hiện xuống cấp9.

Ở chiều ngược lại, những tiến bộ xã hội đạt được trong thời gian qua đã góp phần quan trọng tạo động lực cho tăng trưởng. Công tác giáo dục – đào tạo được chú trọng, từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao; chăm sóc sức khỏe Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi cho các nhóm yếu thế được quan tâm. Các dự án hạ tầng trọng điểm như Cảng hàng không quốc tế Long Thành đang mở ra không gian phát triển mới, tạo điều kiện để kinh tế Đồng Nai hội nhập sâu rộng và khẳng định vai trò hạt nhân trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Thực tiễn phát triển của Đồng Nai cho thấy, tăng trưởng kinh tế đã tạo ra nguồn lực vật chất to lớn để đầu tư cho các lĩnh vực xã hội, như: giáo dục, y tế, phúc lợi và phát triển hạ tầng. Đồng thời, tiến bộ xã hội với việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải thiện an sinh xã hội đã góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư và thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây chính là sự gắn kết hữu cơ, thể hiện tính biện chứng trong thực tiễn phát triển của địa phương.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình phát triển của Đồng Nai vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh hơn khả năng đáp ứng của các chính sách xã hội dẫn đến tình trạng bất cập trong giải quyết nhà ở, phúc lợi và chất lượng đời sống công nhân. Vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý chất thải công nghiệp còn nhiều thách thức. Khoảng cách phát triển giữa khu vực đô thị – nông thôn và giữa các nhóm dân cư ngày càng rõ nét cho thấy, tiến bộ xã hội chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế.

4. Một số giải pháp, kiến nghị

Để giải quyết hài hòa mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, tỉnh Đồng Nai có thể tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, tuần hoàn và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng bền vững, phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, gắn sản xuất công nghiệp với yêu cầu nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên và giảm phát thải.

Hai là, phát triển toàn diện nguồn nhân lực và nâng cao phúc lợi xã hội cho người lao động. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới sáng tạo, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề và kỹ năng chuyên sâu cho công nhân. Đồng thời, cải thiện đồng bộ điều kiện làm việc, chính sách nhà ở xã hội và các dịch vụ phúc lợi xã hội cho người lao động, nhất là nhóm công nhân nhập cư.

Ba là, bảo đảm công bằng xã hội và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Thực hiện hiệu quả chính sách phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế kết hợp với bảo đảm phúc lợi xã hội. Ưu tiên các chương trình nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tập trung phát triển nông thôn bền vững và nâng cao thu nhập cho nông dân gắn với chương trình nông thôn mới nâng cao.

Bốn là, tăng cường quản lý môi trường và phát triển đồng bộ hạ tầng xã hội. Cụ thể hóa các tiêu chuẩn môi trường, tăng cường công tác quản lý và giám sát môi trường, đầu tư hạ tầng xử lý nước thải, chất thải công nghiệp; khuyến khích ứng dụng công nghệ sản xuất sạch. Đồng thời, phát triển đồng bộ hệ thống y tế, giáo dục và hạ tầng văn hóa, đặc biệt là ở các khu đô thị hóa nhanh và khu công nghiệp.

Năm là, cụ thể hóa và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội bao trùm. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội phù hợp với điều kiện địa phương, tập trung giải quyết các vấn đề đặc thù như công nhân nhập cư và các nhóm yếu thế, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển.

Sáu là, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và sự tham gia của cộng đồng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, minh bạch hóa thông tin, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và người dân trong giám sát, phản biện, nhằm bảo đảm chính sách phát triển hài hòa, bền vững.

5. Kết luận

Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thực tiễn Đồng Nai cho thấy hai yếu tố này vừa là mục tiêu, vừa là động lực của nhau. Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ tạo điều kiện để thúc đẩy các chính sách xã hội, trong khi tiến bộ xã hội lại góp phần bảo đảm môi trường ổn định, nâng cao chất lượng nhân lực, từ đó tạo ra động lực mới cho phát triển kinh tế.  Tuy nhiên, sự phát triển cũng bộc lộ những mâu thuẫn khi tốc độ tăng trưởng nhanh chưa hoàn toàn đi đôi với công bằng xã hội, chất lượng sống và bảo vệ môi trường. Do đó, trong giai đoạn tới, Đồng Nai cần tiếp tục kiên định mục tiêu phát triển bền vững, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, lấy con người làm trung tâm, vừa là mục tiêu vừa là động lực của mọi chính sách phát triển. Đây chính là con đường đúng đắn để Đồng Nai không chỉ duy trì vị thế tỉnh công nghiệp trọng điểm mà còn trở thành hình mẫu về phát triển toàn diện, hài hòa và bền vững của cả nước.

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.140-141.

2. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2025). Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội 9 tháng năm 2025.

3. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập (1995). Tập 23. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 75-76.

4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.411-412.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.148-150.

6. Nguyễn Phú Trọng (2015). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.52-54.

7, 8. Tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh tháng 9 và 9 tháng năm 2025. https://thongke.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1272&CatId=93.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.123-124.