Kinh nghiệm cải cách hành chính ở tỉnh Quảng Ninh

(QLNN) – Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp, giám sát của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội và nhân dân, công tác cải cách hành chính của tỉnh đã có bước chuyển biến rõ nét trên cả 6 nội dung trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.

Những kết quả đáng ghi nhận

Trong những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chủ động ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện kịp thời, toàn diện trên tất cả các nội dung công tác cải cách hành chính (CCHC). Xác định 3 trọng tâm cải cách hành chính là cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công nên công tác xây dựng, ban hành và rà soát các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) được triển khai, thực hiện nghiêm túc, bảo đảm đúng quy trình, quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả; tỉnh đã chỉ đạo rà soát, chuẩn hóa bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các sở, ban, ngành và ủy ban nhân dân cấp huyện đưa vào thực hiện tại Trung tâm Hành chính công và các Trung tâm Hành chính công cấp huyện, bảo đảm nhanh chóng, hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện TTHC.

Đổi mới quy trình lựa chọn cán bộ; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực, tập trung đào tạo theo vị trí việc làm, có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công tác tại tỉnh; xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo, điều hành, đánh giá chất lượng, hiệu quả cải cách hành chính thông qua Bộ Chỉ số CCHC tại các cơ quan, đơn vị, địa phương; đẩy mạnh việc rà soát tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế, sắp xếp lại tổ chức bộ máy trong các đơn vị phù hợp, tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Đồng thời, rà soát đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) để loại bỏ những CBCC không đủ năng lực, trình độ nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong quá trình thực thi công vụ và giảm chi phí hành chính; tích cực, chủ động triển khai Đề án xác định vị trí việc làm trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp theo hướng dẫn của trung ương, bảo đảm theo đúng lộ trình đã đề ra; thanh tra, kiểm tra trong thực thi công vụ được tăng cường theo hình thức đột xuất, liên tục; tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động công sở tại các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh.

Công tác quản lý tài chính, thu chi ngân sách có chuyển biến rõ rệt. Việc thực hiện giám sát chi bằng quy chế chi tiêu nội bộ bước đầu có những tác động tích cực, tạo điều kiện chủ động cho các đơn vị cân đối nguồn lực tài chính sử dụng tiết kiệm, sắp xếp tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức tinh gọn theo tinh thần CCHC.

Đối với các cơ quan ngành dọc, công tác CCHC trên địa bàn tỉnh được các cơ quan phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc tỉnh nghiêm túc triển khai, bám sát sự chỉ đạo của trung ương, của ngành, của tỉnh từ việc xây dựng chương trình, kế hoạch năm, tham gia ý kiến trong xây dựng, tổ chức thực hiện, tham mưu cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đơn giản hóa TTHC, báo cáo kết quả kịp thời.

CCHC là công tác đòi hỏi phải được thực hiện đồng bộ từ trung ương đến địa phương, các cấp, các ngành, từ thủ trưởng đến CBCC trong từng cơ quan, đơn vị, tuy nhiên công tác chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành thực hiện CCHC của lãnh đạo của một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thực sự quan tâm. Vì vậy, việc xây dựng kế hoạch và triển khai, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công tác CCHC tại một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế.

Trên thực tế còn có CBCC viên chức làm công tác CCHC ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương năng lực còn hạn chế, chưa hiểu về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, bộ máy, của vị trí việc làm, đặc biệt việc tham mưu cho lãnh đạo đơn vị, địa phương về công tác CCHC chưa bám sát vào thực tế. Chất lượng báo cáo công tác CCHC tại một số ngành, đơn vị, địa phương còn thấp, mang tính hình thức, thời gian chậm so với quy định.

Bộ TTHC chưa thống nhất, đồng bộ do các văn bản QPPL có chứa TTHC thường xuyên thay đổi. Mặt khác, theo Thông tư số 05/2014/TT-BTP ngày 07/02/2014 về việc hướng dẫn công bố, niêm yết TTHC và báo cáo về tình hình kết quả thực hiện kiểm soát TTHC có quy định, các bộ, ngành trung ương xây dựng quyết định công bố TTHC của cả 3 cấp chính quyền ngay sau khi văn bản QPPL được ban hành. Tuy nhiên, đến nay, nhiều bộ, ngành chưa có quyết định công bố nên các địa phương khó khăn trong việc thực hiện thống nhất.

Việc xây dựng Đề án vị trí việc làm là việc làm mới, triển khai diện rộng trên toàn tỉnh, do vậy trong quá trình xây dựng Đề án còn gặp nhiều khó khăn, do các văn bản hướng dẫn của bộ, ngành còn thiếu, hầu hết chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn của mỗi chức danh nghề nghiệp ứng với mỗi lĩnh vực cụ thể; nhiều vị trí khó xác định chuyên ngành đào tạo cần thiết; nhiều nội dung xác định chỉ mang tính định tính, khó có thể định lượng (thống kê ước tính thời gian cho mỗi công việc, số lượng đầu ra của sản phẩm, kinh nghiệm công tác cho mỗi vị trí việc làm cụ thể…); không có văn bản quy định, hướng dẫn chung, thống nhất về từng vị trí việc làm; không có căn cứ cụ thể để xác định rõ, đúng các yếu tố ảnh hưởng đến vị trí việc làm nên việc xác định mang tính chủ quan…

Những bài học được rút ra

Một là, cần phải huy động nguồn lực của toàn hệ thống chính trị, chú trọng công tác tuyên truyền, quán triệt triển khai công tác CCHC trên tất cả các nội dung; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị, địa phương; của CBCC, viên chức trong tỉnh về công tác CCHC.

Hai là, công tác CCHC cần phải thực hiện kiên trì, thường xuyên với những mục tiêu và giải pháp cụ thể; lấy sự hài lòng của tổ chức và công dân làm mục tiêu thực hiện công tác CCHC.

Ba là, để thực hiện có kết quả công cuộc CCHC, yếu tố quyết định hàng đầu là hệ thống thể chế, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ CBCC. Do đó, phải đổi mới, nâng cao chất lượng tham mưu ban hành văn bản QPPL; tăng cường rà soát văn bản, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện văn bản QPPL; kịp thời phát hiện, xử lý các văn bản QPPL chưa phù hợp để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với tình hình thực tiễn; rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp để tránh sự chồng chéo; thực hiện tốt việc sắp xếp kiện toàn tổ chức bộ máy của các đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, khai thác và thực hiện tốt các dịch vụ công để từng bước tự chủ kinh phí hoạt động. Đội ngũ CBCC, viên chức phải thường được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và thật sự tâm huyết với công việc.

Bốn là, CCHC phải được tiến hành đồng bộ, trong đó cải cách TTHC, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công là khâu đột phá có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, cá nhân; mạnh dạn loại bỏ những TTHC không cần thiết, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong giải quyết công việc hành chính có liên quan đến tổ chức, cá nhân.

Năm là, cần tiếp tục xây dựng đội ngũ CBCC có trình độ, năng lực và có phẩm chất đạo đức tốt, khả năng giao tiếp, tinh thần thái độ phục vụ với tổ chức, công dân. Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh đối với những CBCC có hành vi vi phạm pháp luật. Kịp thời biểu dương những cá nhân, đơn vị làm tốt; chấn chỉnh, phê bình những cá nhân, đơn vị làm chưa tốt, hiệu quả thấp trong thực thi công vụ.

Sáu là, cần thực hiện tốt các khoản chi thường xuyên, nâng nguồn thu nhập tăng thêm, từng bước nâng cao đời sống cho CBCC để khuyến khích CBCC chú tâm trong công việc.

Những giải pháp cần tiếp tục triển khai thực hiện

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp; sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị, địa phương, sự giám sát của Mặt trận tổ quốc các cấp và của nhân dân trong việc thực hiện công tác CCHC, coi công tác CCHC thực sự là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và là khâu đột phá của tỉnh.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của CBCC, viên chức đối với công tác CCHC, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm, vai trò trực tiếp chỉ đạo của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ CCHC ở phạm vi cơ quan, đơn vị mình phụ trách; tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; gắn việc thực hiện công tác CCHC với công tác thi đua khen thưởng để nâng cao trách nhiệm của đội ngũ CBCC, viên chức trong thực thi nhiệm vụ.

Tiếp tục rà soát và đơn giản hóa TTHC trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, đặc biệt là các TTHC liên quan đến người dân, doanh nghiệp; triển khai thực hiện có hiệu quả Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và các Trung tâm Hành chính công cấp huyện, bảo đảm thực hiện theo hướng “Tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt tại chỗ” nhằm rút ngắn thời gian, quy trình giải quyết, hồ sơ giải quyết TTHC. Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công

Bảo đảm kinh phí cho việc thực hiện các đề án, dự án, chương trình thực hiện CCHC của tỉnh trong giai đoạn. Huy động các nguồn lực phục vụ cho việc thực hiện có hiệu quả công tác CCHC.

Thực hiện tốt chính sách tiền lương, thu nhập tăng thêm để tạo động lực thực sự cho CBCC, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ có chất lượng và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tổng kết công tác cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 tỉnh Quảng Ninh.
2. www.quangninh.gov.vn

Nguyễn Thị Vân
Học viện Hành chính Quốc gia