Hợp tác công – tư trong cải cách khu vực công ở Việt Nam

(QLNN) – Hợp tác công – tư là một trong những phương thức huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc thực hiện các nhiệm vụ công đã được triển khai áp dụng phổ biến trong thực tế ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, mang lại nhiều thành công ở các lĩnh vực khác nhau. Đây là hình thức hợp tác được kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân vì tận dụng được nguồn lực tài chính và năng lực quản lý từ khu vực tư nhân, kiểm soát tốt hơn việc sử dụng các nguồn lực công của nhà nước trong khi vẫn bảo đảm lợi ích cho người dân và xã hội.

Tái cấu trúc khu vực công trong tiến trình đổi mới

Công cuộc đổi mới được Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực hiện từ năm 1986 cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo mô hình Xô Viết sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã mang lại những thay đổi to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh việc khẳng định vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm cung cấp các dịch vụ công, nhà nước đã “mở cửa” một số lĩnh vực (nhất là các lĩnh vực sự nghiệp), cho phép tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ cùng với các đơn vị của nhà nước (như trong giáo dục, y tế, văn hóa,…) trong tiến trình xã hội hóa.

Xã hội hoá dịch vụ công được hiểu là quá trình mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội cùng tham gia với nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là, nhà nước khuyến khích sự tham gia của các đối tác tư nhân trong việc bảo đảm cung cấp dịch vụ, qua đó tăng cường vai trò của khu vực tư nhân, tái cấu trúc lại khu vực công vốn bao trùm lên gần như toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo hướng giảm quy mô của khu vực công, chuyển giao bớt nhiệm vụ cho khu vưc tư nhân. Nhà nước đang dần chuyển hướng từ nhà nước “chèo thuyền” sang nhà nước “lái thuyền”.

Phương hướng xã hội hóa đã được xác định ở Việt Nam khá sớm, cùng với quá trình đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã xác định phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” và chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII. Tuy nhiên, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) mới chính thức sử dụng thuật ngữ “xã hội hóa”, đặt nền móng cho quá trình xã hội hóa dịch vụ công. Văn kiện Đại hội đã xác định: các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.

Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mọi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Gần đây, tại Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư, đã xác lập hành lang pháp lý tương đối cụ thể cho việc xã hội hóa việc cung ứng dịch vụ công, lôi cuốn tư nhân tham gia cùng với nhà nước trong việc bảo đảm các dịch vụ công cho công dân và tổ chức trong xã hội.

Xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam đã mang lại nhiều thay đổi trong quá trình cung cấp dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo thuận lợi hơn cho người dân khi tiếp cận dịch vụ và giảm gánh nặng chi của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, quá trình xã hội hóa mặc dù đã được triển khai gần 20 năm nhưng vẫn diễn ra rất chậm. Cho tới nay, phần lớn các dịch vụ công ở Việt Nam vẫn được các cơ quan nhà nước (có thể là cơ quan quản lý nhà nước hoặc các đơn vị sự nghiệp của nhà nước hay các doanh nghiệp nhà nước) cung cấp. Vì nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan và khách quan, việc tham gia cung cấp dịch vụ công của khu vực ngoài nhà nước còn khá hạn chế và phát sinh nhiều vấn đề phải giải quyết.

Mức độ xã hội hóa diễn ra không đồng đều ở các ngành, lĩnh vực khác nhau và giữa các vùng khác nhau: thường các cá nhân và tổ chức ngoài nhà nước chỉ chú trọng đầu tư vào các khu vực thuận lợi như các thành phố lớn, nơi đông dân cư và thu nhập cao, ít quan tâm tới các khu vực chậm phát triển; mức độ xã hội hóa cao cũng chỉ tập trung vào các ngành nghề dễ tạo ra lợi nhuận kinh tế và ngược lại.

Nguyên nhân chủ yếu là do nhà nước vẫn còn thiếu những chính sách khuyến khích rõ ràng và cụ thể, chưa có được quy hoạch chung để định hướng và lên kế hoạch triển khai xã hội hóa cho các ngành, các lĩnh vực và các vùng. Việc kiểm soát chất lượng dịch vụ và xử lý vi phạm của các đơn vị cung cấp dịch vụ ngoài nhà nước chưa được thực hiện chặt chẽ và nghiêm túc. Các nhà đầu tư tư nhân thường chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao để tận thu, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ yếu, cơ chế tài chính không minh bạch. Vẫn còn nhiều cơ sở tư nhân được thành lập dưới dạng tự phát nên khó kiểm soát chất lượng.

Hợp tác công – tư trong xã hội hóa

Các hình thức hợp tác giữa nhà nước và tư nhân trong hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu của xã hội đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng từ nhiều năm nay với tên gọi ”hợp tác công – tư” (PPP). Tuy nhiên, trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam hiện nay, nội hàm của khái niệm “hợp tác công – tư” vẫn còn chưa được hiểu thống nhất cả giữa các nhà lý luận và các nhà thực tiễn hành chính.

Theo cách hiểu thông thường, hợp tác công – tư là hoạt động phối hợp, hợp tác giữa nhà nước và tư nhân trong quá trình cùng cung cấp một hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Hợp tác công – tư là hình thức; trong đó, khu vực tư nhân tham gia cùng với nhà nước (tài trợ một phần hoặc triển khai thực hiện một phần công việc nào đó) trong các dự án cung cấp hàng hóa hay dịch vụ công.

Từ điển Bách khoa toàn thư mở định nghĩa: Hợp tác công – tư là quá trình lôi cuốn nguồn vốn và kinh nghiệm của tư nhân vào việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Những lĩnh vực hoạt động mà mô hình hợp tác công – tư thường được triển khai là dịch vụ cung cấp hạ tầng cơ sở (đường giao thông, cầu, sân bay, cảng biển,…) và các dịch vụ công khác như bệnh viện, trường học, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, … vốn là những lĩnh vực mà trước đây trách nhiệm cung cấpthường thuộc về nhà nước. Như vậy, với cách hiểu này, hợp tác công – tư diễn ra rất đa dạng và các dự án có sự tham gia của tư nhân theo các hình thức BT, BOT, BTO, … đều có thể được coi là những dự án hợp tác công – tư.

Trên thực tế, có nhiều hình thức hợp tác công – tư với nhiều cấp độ khác nhau về chia sẻ trách nhiệm và rủi ro từ hợp đồng dịch vụ, hợp đồng quản lý, hợp đồng cho thuê, nhượng quyền,… Trong quan hệ hợp tác công – tư, khu vực tư nhân có thể tham gia ở bất kỳ khâu nào hoặc tất cả các khâu, như thiết kế, cung cấp tài chính, xây dựng hạ tầng cơ sở hay tham gia điều hành việc cung cấp dịch vụ.

Các nhà nghiên cứu trên thế giới đều thống nhất rằng, đây là hình thức hợp tác mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân vì tận dụng được nguồn lực tài chính và năng lực quản lý từ phía tư nhân, giảm gánh nặng đầu tư của nhà nướctrong khi vẫn bảo đảm lợi ích cho người dân và xã hội. Mặc dù đầu tư vào các dự án PPP thường lâu thu hồi vốn và lợi nhuận có thể thấp hơn so với nhiều hình thức đầu tư khác nhưng việc đầu tư theo hình thức PPP thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tư nhân vì mức độ rủi ro lại thấp hơn khi có một khung pháp lý ổn định và do có sự tham gia của nhà nước.

Khi áp dụng hình thức hợp tác công – tư, cả nhà nước và doanh nghiệp cùng có lợi. Hợp tác công – tư trước hết nhằm huy động các nguồn vốn của tư nhân tham gia vào cùng với nhà nước trong cung cấp các dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của xã hội, giúp chính phủ giảm bớt gánh nặng chi ngân sách cho việc trực tiếp cung cấp dịch vụ, qua đó giảm bớt thâm hụt ngân sách nhà nước, tập trung nguồn ngân sách vào các hoạt động bảo đảm công bằng và an sinh xã hội, trợ giúp những đối tượng thiệt thòi như người nghèo. Tuy nhiên, lợi ích của hợp tác công – tư không chỉ dừng lại ở đó mà thông qua việc hợp tác công – tư, nhà nước còn được nâng cao khả năng tiếp cận các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến và tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách.

Ở Việt Nam, hợp tác công – tư đang được nhắc đến trong tiến trình cải cách khu vực công như là một giải pháp tái cơ cấu khu vực nhà nước vốn có phạm vi hoạt độngbao trùm lên toàn xã hội trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đồng thời là một cách thức mới và hiệu quả giúp nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn để đầu tư phát triển, nhất là đối với các dự án đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn như xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế suy giảm, thâm hụt ngân sách nhà nước có chiều hướng gia tăng.

Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mặc dù tỷ lệ GDP dành cho phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam vào khoảng 10%, cao hơn nhiều so với nhiều nước nhưng tổng số ngân sách cụ thể vẫn chưa thể đáp ứng các yêu cầu. Nhu cầu đầu tư cho hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam từ nay đến năm 2020 cần khoảng 150 – 160 tỷ USD; trong đó điện cần 40 tỷ USD, đường bộ cần 53 tỷ USD, đường sắt cần 3 tỷ USD chưa kể đường sắt trên cao và tàu điện ngầm, cảng biển cần 25 tỷ USD. Mỗi năm hiện nay Việt Nam cần 15-16 tỷ USD cho phát triển cơ sở hạ tầng trong khi nguồn vốn nhà nước mới chỉ đáp ứng được 7-8 tỷ tức là chỉ khoảng 50% nhu cầu.

Trong bối cảnh đó, việc tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi như ODA lại ngày càng khó khăn hơn vì Việt Nam từ năm 2010 đã đạt ngưỡng các nước có thu nhập trung bìnhvà tỷ lệ nợ công đã đạt mức khá cao. Chính vì vậy, thu hút đầu tư theo hình thức đối tác công- tư trở nên cấp thiết để đảm bảo nhu cầu vốn cho quá trình phát triển. Bên cạnh đó, việc đưa mô hình hợp tác công – tư vào đầu tư sẽ làm tăng hiệu quả phần vốn đầu tư của nhà nước, đồng thời, giúp nhà nước tiếp cận các thành tựu khoa học – công nghệ mới thông qua hoạt động đầu tư của các đối tác, nhất là các đối tác tư nhân nước ngoài.

Thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai mô hình hợp tác công tư ở Việt Nam

Trong bối cảnh hiện nay, việc triển khai mô hình hợp tác công – tư ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thuận lợi và khó khăn. Trước hết, có thể thấy, mô hình hợp tác công – tư hiện nay đang giành được sự quan tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước. Các quy định của Đảng và Nhà nước đều khẳng định sự cam kết mạnh mẽ và đảm bảo sự hỗ trợ cần thiết cho việc triển khai hợp tác công – tư. Sự ủng hộ chính trị này rất quan trọng để khẳng định xu hướng không thể đảo ngược và bảo đảm niềm tin của các nhà đầu tư tư nhân khi tham gia các dự án hợp tác công – tư. Đảng và Nhà nước đã xác định được phương hướng rõ ràng và thống nhất là cần phải thu hút được nguồn lực của tư nhân vào việc phát triển hạ tầng cơ sở và cung cấp dịch vụ. Thực tế cho thấy, đây là một xu hướng không thể thay đổi, là một giải pháp cần thiết để tạo cơ sở cho tiến trình phát triển.

Khuôn khổ thể chế cho việc triển khai mô hình hợp tác công – tư ở Việt Nam đã được hình thành và đang ngày càng hoàn thiện. Căn cứ pháp lý điều chỉnh lĩnh vực hợp tác công – tư ở Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu và các văn bản dưới luật như: Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh và Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao và Nghị định 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư. Quyết định 71/2010/QĐ-TTg đã xác lập tương đối rõ nét hành lang pháp lý để đẩy mạnh hợp tác công – tư ở Việt Nam, đồng thời là động lực tạo ra bước đột phá mới để phát triển cơ sở hạ tầng ở nước ta.

Việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hợp tác công – tư là yếu tố quan trọng tiên quyết để lôi cuốn sự quan tâm của các nhà đầu tư tư nhân vì nó xác định điều kiện cần thiết để bảo vệ nguồn vốn đầu tư của họ trước sự thay đổi và giảm rủi ro đầu tư, có cơ sở để giải quyết khi có tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia dự án trong quá trình thực hiện hợp đồng đầu tư. Mặc dù các quy định hiện nay đã tương đối đầy đủ nhưng trong tương lai, cần thống nhất các quy định này để giúp cho các nhà đầu tư tư nhân dễ dàng tiếp cận và phân tích hơn, giảm phân vân khi quyết định việc đầu tư.

Các cơ quan quản lý lĩnh vực hợp tác công – tư đã hình thành và đang từng bước được hoàn thiện. Tháng 3/2012 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Văn phòng PPP thuộc Cục Quản lý đầu thầu với chức năng là đơn vị đầu mối chuyên trách nhằm tập trung thống nhất thực hiện các hoạt động triển khai mô hình hợp tác công – tư tại Việt Nam; tháng 10/2012 Ban chỉ đạo về đầu tư theo hình thức hợp tác công – tư được thành lập theo Quyết định số 1624/QĐ-TTg ngày 29/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ do một phó thủ tướng trực tiếp điều hành.

Tổ công tác liên ngành về PPP đã được thành lập với đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư gồm đại diện của Văn phòng Chính phủ và các bộ: giao thông vận tải, công thương, giáo dục và đào tạo, tài nguyên và môi trường, tài chính, xây dựng, y tế, tư pháp, thông tin và truyền thông và ngân hàng nhà nước. Hoạt động của các đơn vị này đã góp phần cung cấp thông tin, hoàn chỉnh hệ thống thể chế về hợp tác công – tư và chuẩn bị xúc tiến các dự án hợp tác công – tư trong thực tế.

Tuy đã đạt được nhiều thành công nhất định, nhưng trong lĩnh vực hợp tác công – tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết để mô hình đầu tư này trở nên hấp dẫn và lôi cuốn hơn. Thực tế cho thấy, mặc dù quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP được triển khai từ năm 2010, nhưng cho tới nay chưa có một dự án nào được triển khai trong thực tế, chỉ một số ít dự án như dự án đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết, dự án ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm của chính phủ, dự án cung cấp các dịch vụ hậu cần bệnh viện,… được chấp thuận về chủ trương nhưng vẫn trong giai đoạn chuẩn bị. Điều đó cho thấy, hình thức đầu tư này vẫn chưa thực sự được quan tâm mạnh mẽ từ phía các nhà đầu tư tư nhân. Các lý do chủ yếu sau khiến cho các nhà đầu tư chưa mặn mà với hình thức đầu tư mới được kỳ vọng này:

Thứ nhất, khung pháp lý để triển khai hợp tác công – tư mặc dù đã được triển khai xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn chưa đầy đủ và chưa thống nhất, do đó vẫn chưa tạo được sự an tâm đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân. Thực tế triển khai các dự án hợp tác công – tư trong thời gian qua cho thấy, do hệ thống pháp lý về hợp tác công – tư của Việt Nam chưa hoàn toàn ổn định và đầy đủ nên sự tham gia của các đơn vị nhà nước trong các dự án lâu dài là cần thiết vì phần vốn của nhà nước sẽ góp phần định hướng đầu tư, tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư tư nhân. Đồng thời, với vị thế của mình, các đơn vị nhà nước sẽ tư vấn lại cho chính quyền, góp phần làm giảm khoảng cách giữa chính sách và thực tế. Sau khi các dự án đi vào ổn định, các đơn vị nhà nước có thể thực hiện hoạt động thoái vốn, chuyển giao quyền quản lý và điều hành dự án cho các đơn vị tư nhân và sử dụng vốn rút ra để tiếp tục đầu tư vào các dự án khác.

Thứ hai, nhận thức về hợp tác công – tư của cả các cơ quan nhà nước và tư nhân vẫn còn rất hạn chế, khó đi đến sự đồng thuận và do đó ảnh hưởng tới sự liên kết. Trong khi nhà nước khẳng định mong muốn thu hút đầu tư từ phía các nhà đầu tư tư nhân qua các quy định và chính sách ngày càng rộng mở và rõ ràng thì các nhà đầu tư tư nhân vẫn cho rằng họ đang đứng trước một sân chơi bất bình đẳng, tiềm ẩn nhiều rủi ro và do đó ít có hứng thú đầu tư.

Để khắc phục tình trạng này, xây dựng niềm tin cho nhà đầu tư tư nhân, cần hoàn thiện hệ thống thể chế và thay đổi cơ chế điều hành dự án, từ quá trình lập kế hoạch đến triển khai, và tăng cường tuyên truyền để thay đổi nhận thức của nhà đầu tư và xã hội về hợp tác công – tư.

Thứ ba, năng lực của các doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu của hợp đồng hợp tác công – tư, nhất là với các dự án lớn, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn và kỹ thuật cao. Những dự án đòi hỏi đầu tư vốn lớn có sự tham gia của tư nhân đã và đang được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng số lượng vẫn rất hạn chế. Trong thực tế, một số dự án mặc dù được coi là hợp tác công – tư, nhưng về bản chất lại không thể hiện được chính xác tinh thần “hợp tác công – tư” mà đã bị biến dạng thành “hợp tác công – công” vì các bên tham gia đều là cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước (sở hữu vốn nhà nước).

Để nâng cao năng lực của phía đối tác tư nhân, trong bối cảnh hiện nay cần liên kết nhiều nhà đầu tư tư nhân trong cùng một dự án và như vậy càng đòi hỏi về tính minh bạch và rõ ràng để tránh tranh chấp trong quá trình thực hiện các hợp đồng.

Những định hướng cơ bản triển khai hợp tác công – tư ở Việt Nam trong tương lai

Trước hết, cần phải khẳng định rằng kết quả của việc triển khai thành công mô hình hợp tác công – tư có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển của quốc gia trong tương lai. Trong Quyết định 631/QĐ-TTg ngày 29/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài tới năm 2020 có tới gần 40/127 dự án được dự kiến tiến hành theo hình thức PPP (chưa kể các dự án dự kiến thực hiện theo hình thức BOT hoặc BOT).

Trong bối cảnh công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu tới năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhu cầu tăng đầu tư cho phát triển, trước hết là phát triển hạ tầng cơ sở và cung cấp một số dịch vụ công thiết yếu, là cần thiết. Trong khi nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn chế thì việc tìm kiếm các nguồn đầu tư ngoài nhà nước rất quan trọng để thực hiện chiến lược này.

Trong tương lai đây sẽ phải trở thành định hướng chính để phát triển hạ tầng cơ sở và cung cấp dịch vụ công. Thiếu đầu tư tư nhân, nhà nước sẽ phải giữ vai trò nhà đầu tư lớn duy nhất và do đó không cải thiện được tình hình. Vai trò của khu vực tư nhân trong hợp tác công – tư không chỉ dừng lại ở việc cung cấp vốn, mà còn là thế mạnh về công nghệ, kỹ thuật và khả năng quản lý, vận hành dự án để đạt được mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng chất lượng dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của công dân và xã hội.

Trong quá trình triển khai hợp tác công – tư trong thực tế, vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Hợp tác trên tinh thần chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa các bên tham gia đòi hỏi phải có niềm tin giữa các bên. Trong bối cảnh đó, nhà nước phải tạo lập được niềm tin cho các nhà đầu tư tư nhân thông qua những cam kết thể hiện trong hệ thống pháp lý và hợp đồng, đồng thời khẳng định các cam kết cả về mặt định hướng.

Việc đảm bảo có được một cam kết lâu dài từ phía các nhà hoạch định chính sách đối với hình thức hợp tác công – tư cũng sẽ làm tăng thêm tính hấp dẫn của các dự án triển khai theo hình thức này đối với khu vực tư nhân và khuyến khích họ đầu tư mạnh mẽ hơn. Việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương của nhà nước cam kết triển khai hợp tác công – tư để tăng cường nhận thức cho các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư tư nhân và toàn xã hội để tạo sự đồng thuận là nền tảng để thực hiện hợp tác công – tư thành công trên thực tế.

Tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong cung cấp hạ tầng cơ sở và dịch vụ công dẫn tới những thay đổi nhất định trong vai trò của nhà nước. Hợp tác công – tư không những không làm giảm vai trò của nhà nước mà đòi hỏi nhà nước phải thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ hơn để duy trì mục tiêu cung cấp dịch vụ của mình. Vai trò của nhà nước về mặt quản lý trước hết cần thể hiện ở việc nhà nước phải xây dựng khung pháp lý để triển khai hoạt động hợp tác công – tư sao cho đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, đồng thời xác định chính xác danh mục các dự án cần thu hút đầu tư theo định hướng phát triển của nhà nước. Ngoài ra, vai trò của nhà nước cũng rất quan trọng trong từng dự án cụ thể, từ việc đề xuất xây dựng cơ cấu vốn, tiếp thị, triển khai hoạt động đấu thầu hay lựa chọn nhà đầu tư, thỏa thuận các điều kiện về hợp đồng với các đối tác tư nhân,….

Trong suốt quá trình triển khai thực hiện dự án thì vai trò giám sát của nhà nước, của các cơ quan Chính phủ, cơ quan thực hiện rất quan trọng để đảm bảo dự án đi đúng hướng cũng như giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện một cách kịp thời.

Hợp tác công – tư đã được triển khai mạnh mẽ trên thế giới và mang lại nhiều thành công nhưng cũng có không ít thất bại và hạn chế. Để thực hiện thành công mô hình này ở Việt Nam, việc học tập kinh nghiệm các nước là yêu cầu cấp bách và khách quan. Để triển khai áp dụng rộng rãi mô hình hợp tác công – tư cũng cần bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức của các cấp lãnh đạo, các cơ quan quản lý trong việc xác định mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp, thể hiện được sự bình đẳng giữa nhà nước với tư nhân trong đầu tư và khi đó, tách quản lý nhà nước ra khỏi hoạt động đầu tư kinh tế của nhà nước là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi chiến lược lôi cuốn tư nhân tham gia cùng với nhà nước trong việc cung cấp hang hóa và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của xã hội. Cũng cần lưu ý rằng, hợp tác công – tư không phải là giải pháp “vạn năng” để giải quyết mọi vấn đề phát triển mà chỉ là một giải pháp trong số những giải pháp cần áp dụng để nâng cao chất lượng đầu tư cho quá trình phát triển của một quốc gia./.

Tài liệu tham khảo:
1. ADB. Public-Private Partnership Handbook, Manila, Philippines, 2008.
2. Bộ Y tế. Báo cáo đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường phối hợp công – tư trong lĩnh vực y tế. Hà Nội, 2011.
3. Hồ Công Hòa. Mô hình hợp tác công – tư: giải pháp tăng nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý của tư nhân cho các dự án về môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý Kinh tế số 40 (11/2011), tr.14-27.
4. Đoàn Duy Khương. Hợp tác công – tư trong phát triển hạ tầng giao thông vận tải. Tạp chí Cộng sản điện tử (http://www.tapchicongsan.org.vn) ngày 12/6/2012.
5. Osborne, David/Gaebler, Ted. Đổi mới hoạt động của Chính phủ. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
6. Mai Thị Thu và các tác giả. Phương thức đối tác công – tư (PPP): Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam. H. NXB. Tri thức, 2013.
7. WB. Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi. H. NXB. Chính trị Quốc gia, 1997.

PGS.TS. Đặng Khắc Ánh
Học viện Hành chính Quốc gia