Tổ chức và hoạt động của cơ quan tài phán hành chính ở một số nước trên thế giới – Kinh nghiệm và kiến nghị

(QLNN) – Ở một số nước trên thế giới, việc tổ chức và hoạt động của cơ quan tài phán hành chính được dựa trên hai học thuyết cơ bản là học thuyết về phân quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp và học thuyết về phân chia nền hành chính thành: hành chính điều hành và hành chính tài phán.

 

Học thuyết về phân quyền cho rằng, quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh quyền lực là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba nhánh quyền lực này kiềm chế và đối trọng với nhau. Từ học thuyết này đã hình thành nên quan niệm các hành vi trong xã hội khi phát sinh tranh chấp đều cần thiết đưa ra tòa án để giải quyết theo quy định. Lúc này, tòa án với tư cách là một cơ quan trung gian sẽ tiến hành xét xử, bảo đảm khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Quyết định hành chính, hành vi hành chính do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành, thực hiện tác động đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức thì cũng phải chịu sự kiểm soát của cơ quan tư pháp khi cá nhân, tổ chức khiếu kiện yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Học thuyết về phân chia nền hành chính thành hành chính điều hành và hành chính tài phán. Theo đó, các tranh chấp kể cả tranh chấp hành chính đều cần thiết đưa ra cơ quan tư pháp giải quyết, thì cũng có quan niệm cho rằng cơ quan hành pháp không được can thiệp vào quyền độc lập xét xử của cơ quan tư pháp, nhưng ngược lại cơ quan tư pháp không được can thiệp vào hoạt động của cơ quan hành pháp. Quan điểm này cho rằng, nền hành chính bao gồm hai bộ phận: hành chính điều hành và hành chính tài phán. Hành chính điều hành là thực hiện chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội hàng ngày, tổ chức thực hiện, phối hợp, kiểm tra, có các biện pháp thực hiện các kế hoạch về kinh tế – xã hội,…

Bộ phận hành chính tài phán có chức năng và thẩm quyền xét xử quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong hệ thống hành chính điều hành. Hành chính tài phán nằm trong hệ thống hành pháp, nhưng độc lập với hành chính điều hành.

Xuất phát từ hai học thuyết nêu trên cũng như điều kiện cụ thể của từng nước mà mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tài phán hành chính ở mỗi nước trên thế giới có những đặc điểm khác nhau.

Mô hình lưỡng hệ tài phán

Những nước theo mô hình lưỡng hệ tài phán (tức là bao gồm hai hệ thống tài phán: tài phán tư pháp và tài phán hành chính) tổ chức hai hệ thống tài phán độc lập. Tài phán tư pháp xét xử những vụ án về hình sự, dân sự. Còn tài phán hành chính xét xử những vụ án về hành chính. Mô hình này có ưu điểm là tính đến những đặc thù của tài phán hành chính (giải quyết tranh chấp giữa một bên là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền và một bên là công dân; đối tượng xét xử là quyết định hành chính, hành vi hành chính; liên quan đến hoạt động của nền hành chính quốc gia). Mô hình lưỡng hệ tài phán phát huy có hiệu quả vai trò của cơ quan tài phán hành chính. Tuy nhiên, mô hình lưỡng hệ tài phán có điểm hạn chế là rất phức tạp, trong một nước nhưng có nhiều hệ thống cơ quan tài phán.

Ở những nước này, hệ thống tài phán hành chính lại có hai loại hình:

– Mô hình Hội đồng Nhà nước (HĐNN) vừa tư vấn pháp lý cho Chính phủ, vừa là cơ quan tài phán hành chính (điển hình là Cộng hoà Pháp). Ở những nước này, HĐNN vừa là cơ quan xét xử các vụ án hành chính vừa có thêm chức năng tư vấn pháp lý.

Ở Pháp, trước kia cơ quan tài phán hành chính chỉ có hai cấp, ở trung ương là HĐNN, ở cơ sở có các Toà án Hành chính liên tỉnh. Đặc điểm quan trọng của cơ quan tài phán hành chính của Pháp và các nước theo mô hình của Pháp là cơ quan tài phán hành chính được giao thêm chức năng tư vấn pháp lý. Chức năng này thể hiện rất rõ ở HĐNN. Đến nay cơ quan tài phán hành chính của Pháp có ba cấp: HĐNN; Toà án Hành chính phúc thẩm; Toà án Hành chính sơ thẩm liên tỉnh.

Tổ chức của HĐNN để có thể đảm đương được chức năng kép (xét xử hành chính và tư vấn pháp lý), thì HĐNN được chia thành 6 ban, trong đó, có 5 ban hành chính và một ban tố tụng. 5 ban Hành chính bao gồm: Ban Nội vụ; Ban Tài chính; Ban Công chính; Ban Xã hội; Ban Tổng hợp và nghiên cứu.

Tổ chức các Toà án hành chính phúc thẩm có 5 Toà án Hành chính phúc thẩm. Khác với HĐNN, Toà án Hành chính phúc thẩm hầu như không có nhiệm vụ tư vấn pháp lý mà chỉ thực hiện chức năng tài phán hành chính.

Các Toà án Hành chính sơ thẩm được tổ chức liên tỉnh (Pháp có 96 tỉnh), có thẩm quyền sơ thẩm tất cả các vụ kiện hành chính trừ những việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm của HĐNN. Về thẩm phán hành chính là những người có chuyên môn sâu về quản lý công và luật hành chính. Một số được tuyển chọn từ công chức các cơ quan hành chính nhà nước đã qua một số năm công tác và có bằng đại học liên quan.

– Mô hình cơ quan tài phán hành chính riêng biệt: Một số nước có hệ thống Toà án hành chính chỉ thực hiện chức năng xét xử hành chính như: Cộng hoà liên bang Đức, Thuỵ Điển, Phần Lan,…

Cộng hoà Liên bang Đức cũng như Cộng hoà Pháp, có hệ thống cơ quan tài phán hành chính hoàn toàn độc lập với các toà án tư pháp. Nhưng khác với cơ quan tài phán hành chính ở Pháp, cơ quan tài phán hành chính ở Đức không có thêm chức năng tư vấn pháp lý. Trong hệ thống toà án hành chính ở Đức, có 52 toà án hành chính khu vực, 16 toà án hành chính liên khu vực và một toà án hành chính liên bang.

Ở Đức, quyền về bảo vệ pháp luật “triệt để” của công dân trước quyền hành pháp phát sinh từ Hiến pháp. Tính triệt để này được thể hiện ở chỗ các tòa án phải bảo đảm sự bảo vệ pháp luật về mặt nguyên tắc đối với công dân trước tất cả những hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan hành pháp. Các thẩm phán hành chính có nghĩa vụ phải nghiên cứu nội dung, làm rõ việc tranh chấp. Toà án không bị ràng buộc bởi các bằng chứng và giải trình của các bên. Bằng nguyên tắc này, toà án hành chính có thể bù đắp sự không cân bằng giữa công dân và cơ quan hành chính và có thể hỗ trợ công dân trong quá trình tố tụng.

Mô hình nhất hệ tài phán

Những nước theo mô hình nhất hệ tài phán thì trong bộ máy nhà nước chỉ tổ chức một hệ thống tài phán. Mô hình này có ưu điểm là hệ thống tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, các cơ quan tài phán xét xử trong một nước được tập trung một đầu mối. Tuy nhiên, mô hình nhất hệ tài phán có điểm hạn chế là nếu không quy định những điểm đặc thù thì có thể không đáp ứng được đặc điểm của tài phán hành chính, từ đó có thể ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết các tranh chấp hành chính.

Những nước theo mô hình nhất hệ tài phán cũng có hai loại hình:

– Mô hình toà hành chính trong toà án thường (Tòa án Tư pháp): Một số nước có giải pháp hỗn hợp lập ra các phân toà hành chính trong Toà án Tư pháp (Toà án thường) như: Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a,…

Ở Trung Quốc, ngày 01/10/1990, sau khoảng 18 tháng thử nghiệm, Luật Tố tụng Hành chính Trung Quốc bắt đầu có hiệu lực. Trong đó, quy định Trung Quốc không lập ra một hệ thống tòa án hành chính riêng mà ở trong tòa án nhân dân lập ra các tòa chuyên trách về hành chính và áp dụng thủ tục quy định tại Luật Tố tụng hành chính. Các tòa án cấp cơ sở có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm.

Điều đó có nghĩa là, trừ những trường hợp ngoại lệ thuộc thẩm quyền sơ thẩm của tòa án cấp trên, thì tòa án cấp cơ sở có thẩm quyền đối với mọi vụ kiện hành chính theo quy định của pháp luật. Tòa án trung cấp xét xử sơ thẩm đối với các vụ việc liên quan đến bằng phát minh sáng chế, các quyết định của hải quan. Đây là những vụ việc đòi hỏi sự hiểu biết khá sâu, những vụ việc này nhìn chung phức tạp và khó khăn đối với tòa án cấp cơ sở.

Ngoài ra, tòa án trung cấp cũng giải quyết toàn bộ những vụ việc quan trọng trong phạm vi phụ trách của mình. Tòa án cao cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ việc đặc biệt quan trọng. Tòa án nhân dân tối cao xét xử sơ thẩm đối với các vụ việc quan trọng đặc biệt trong phạm vi toàn quốc. Tuy vậy, luật pháp Trung Quốc không ấn định các tiêu chuẩn cụ thể cho phép xác định tính chất quan trọng của từng vụ việc. Trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án cao cấp rất hiếm khi xét xử sơ thẩm. Hầu hết các vụ việc được đưa ra xét xử sơ thẩm tại Tòa án cấp cơ sở và Tòa án trung cấp.

– Mô hình Toà án Tư pháp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hành chính. Một số nước khác, thẩm quyền giải quyết tranh chấp hành chính được giao luôn cho các Toà án Tư pháp như: Anh, Na Uy, Ca-na-đa,…

Xinh-ga-po không có Toà án Hành chính riêng biệt. Thông thường các khiếu kiện hành chính được giải quyết ở Toà Thượng thẩm. Việc giải quyết các khiếu kiện hành chính được thực hiện theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Một số đặc điểm của việc giải quyết khiếu kiện hành chính tại Toà án Tư pháp ở Xinh-ga-po đó là: Chỉ có Toà Thượng thẩm thuộc Toà án tối cao mới có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính, còn Toà sơ cấp không được trao thẩm quyền này; công dân có quyền khiếu kiện trực tiếp đến Toà án Tư pháp, không cần phải khiếu nại qua cơ quan hành chính nhà nước; không có thủ tục hoà giải trong tố tụng đối với việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Và để giải quyết một số vụ việc hành chính đặc biệt, ở Xinh-ga-po có thành lập các Hội đồng hành chính.

Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng, mặc dù mô hình tổ chức có khác nhau phụ thuộc vào lịch sử hình thành cũng như đặc điểm của từng nước (nhất hệ tài phán hay lưỡng hệ tài phán) nhưng nhìn chung, hoạt động tài phán hành chính có những điểm đặc thù, chính vì vậy, đòi hỏi phải có mô hình và cơ chế thích hợp mới có thể giải quyết các tranh chấp hành chính có hiệu quả, góp phần bảo đảm sự hoạt động thông suốt của nền hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Một số kinh nghiệm rút ra khi nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tài phán hành chính ở một số nước là:
– Cơ quan tài phán hành chính được tổ chức theo khu vực;
– Hệ thống tổ chức cơ quan tài phán hành chính được tổ chức theo cấp xét xử;
– Thẩm phán hành chính bên cạnh kiến thức về pháp luật còn được đào tạo về quản lý công, quản lý hành chính nhà nước;
– Tùy thuộc điều kiện cụ thể của từng nước mà pháp luật của nước đó có thể quy định thủ tục khiếu nại đến cơ quan hành chính trước khi khởi kiện ra cơ quan tài phán hành chính là bắt buộc hoặc không bắt buộc (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác);
– Trong tố tụng hành chính, cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính có nghĩa vụ chứng minh tính đúng đắn của quyết định hành chính, hành vi hành chính;
– Trong tố tụng hành chính, nguyên tắc “điều tra” được áp dụng;
– Pháp luật các nước có quy định cụ thể khác nhau, nhưng nhìn chung đều quy định cơ quan tài phán hành chính có thể tạm đình chỉ quyết định hành chính của cơ quan hành chính;
– Pháp Luật Tố tụng Hành chính có những quy định về việc thi hành bản án, quyết định của cơ quan tài phán hành chính, trong đó, có thể quy định biện pháp phạt tiền đối với cơ quan hành chính không thi hành bản án, quyết định của cơ quan tài phán hành chính.

Bên cạnh đó, các quy định về trách nhiệm công vụ cũng bảo đảm sự thi hành các bản án, quyết định của cơ quan tài phán hành chính. Theo đó, nếu một công chức không thi hành bản án, quyết định của cơ quan tài phán hành chính thì người này đã vi phạm trách nhiệm công vụ và điều đó có thể dẫn đến việc phải bồi thường thiệt hại cho đương sự. Khi phải bồi thường, cơ quan hành chính sẽ đứng ra thanh toán, sau đó công chức nói trên phải bồi hoàn khoản đã thanh toán đó.

Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, ngày 28/10/1995, trong đó quy định toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính. Theo đó, lập Tòa Hành chính trong Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh, còn ở Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm phán giải quyết các vụ án hành chính.

Ngày 21/5/1996, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực từ 01/7/1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2006). Và đến ngày 24/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật tố tụng hành chính, quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.

Như vậy, cơ chế tài phán hành chính (giải quyết các vụ án hành chính) tại tòa án đã được hình thành và ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Qua khoảng mười sáu năm hoạt động, việc xét xử các vụ án hành chính tại tòa án đã phát huy tác dụng trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính của công dân và góp phần vào kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc xét xử hành chính còn gặp nhiều khó khăn, chưa thực sự phát huy hết được vai trò của mình. Điều này được thể hiện ở một số mặt cụ thể như sau:

Một là, khó khăn do mô hình tổ chức và thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án. Theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 Luật Tố tụng Hành chínhthì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với toà án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó; Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với toà án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.

Mặc dù, Điều 14 của Luật Tố tụng Hành chínhquy định khi xét xử vụ án hành chính, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở thẩm phán, hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khi tòa án giải quyết các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước ở cùng một cấp trên cùng phạm vi địa giới hành chính với tòa án, của cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước đó thì có thể vì một số các lý do khác nhau một số thẩm phán có những “e ngại”. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xét xử các vụ án hành chính.

Hai là, về việc hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng Hành chính. Luật Tố tụng Hành chính được ban hành năm 2010. Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan đã có nhiều nỗ lực triển khai thực hiện, hướng dẫn thi hành Luật tố tụng hành chính, nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số quy định cần phải được hướng dẫn cụ thể để có cơ sở các tòa án nhân dân địa phương thực hiện và thực hiện một cách thống nhất như: hướng dẫn về trình tự, thủ tục tiến hành việc đối thoại trong tố tụng hành chính (quy định tại Điều 12 Luật Tố tụng Hành chính); hướng dẫn về thẩm quyền của Hội đồng xét xử (được quy định tại Điều 163 Luật Tố tụng Hành chính) về việc đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định giải quyết khiếu nại;…

Ba là, Luật Tố tụng Hành chính được ban hành và triển khai thực hiện đã tạo cơ sở pháp lý mang tính luật định đối với trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hành chính tại tòa án. Luật Tố tụng Hành chính với các quy định tương đối đầy đủ, toàn diện đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật Tố tụng Hành chính vẫn còn một số vướng mắc như: khó khăn, vướng mắc về thời hạn và việc ra quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp đối với quyết định trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Tòa án nhân dân cấp dưới (được quy định tại Điều 110 Luật Tố tụng Hành chính, theo đó trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án nhân dân cấp dưới về việc trả lại đơn khởi kiện thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp phải giải quyết); vướng mắc về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đối với các quyết định hành chính ban hành trước ngày 01/7/2011 (ngày Luật Tố tụng Hành chính có hiệu lực thi hành);…     

Bốn là, về việc ủy quyền tham gia tố tụng hành chính của cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Theo quy định của pháp luật thì người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính cho cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện là người đứng đầu cơ quan đó. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng được pháp luật quy định. Nếu người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính cho cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện không thể trực tiếp tham gia tố tụng, dự phiên tòa thì có thể ủy quyền nhưng sự ủy quyền này cần theo những nguyên tắc nhất định.

Thực tế cho thấy hầu như những người này không dự phiên tòa hành chính mà thông thường ủy quyền cho một người đại diện theo ủy quyền thay mặt tham gia tố tụng và dự phiên tòa. Trong một số trường hợp người được ủy quyền đến cũng chỉ nghe và từ chối việc đưa ra ý kiến của mình về vụ việc mà tòa án đang xét xử với lý do chỉ có trách nhiệm đến nghe về báo cáo lại.

Bên cạnh đó, việc người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ủy quyền cho ai thay mặt tham gia tố tụng thực tế mỗi nơi cũng thực hiện một khác (có nơi ủy quyền cho Chánh Văn phòng, có nơi ủy quyền cho Chánh Thanh tra,…) và trong một số trường hợp những người được ủy quyền không được ủy quyền theo đúng nghĩa của nó (thay mặt người đứng đầu cơ quan thể hiện ý kiến tại phiên tòa) và điều đó làm cho việc xét xử vụ án hành chính của tòa án gặp không ít khó khăn.

Năm là, thực tế hiện nay, các khiếu kiện hành chính được giải quyết tại tòa án mặc dù qua các năm, nhất là sau khi Luật Tố tụng Hành chính được ban hành, có tăng lên nhưng số lượng còn rất ít nếu so sánh với số lượng các khiếu nại hành chính được giải quyết ở cơ quan hành chính nhà nước. Điều này xuất phát từ tâm lý, thói quen của một bộ phận người dân là “ngại kiện tụng”. Hơn nữa, việc khởi kiện vụ án hành chính có thể phải kéo dài thời gian theo các quy định tố tụng, phải nộp tạm ứng án phí,…

Bên cạnh đó, khi giải quyết các khiếu kiện hành chính thì tòa án thường chỉ tập trung vào tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Còn việc giải quyết các khiếu nại hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước trong thực tế nhiều khi các cơ quan hành chính nhà nước không chỉ xem xét tính hợp pháp mà xem xét tính hợp lý, xem xét đến chính sách hỗ trợ,… để đáp ứng các yêu cầu quản lý hành chính nhà nước. Chính những điều này đã ảnh hưởng đến số lượng các khiếu kiện hành chính được đưa ra tòa án mặc dù việc giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án cũng có nhiều các ưu điểm.

Sáu là, đội ngũ thẩm phán hành chính mặc dù đã được chú trọng tăng cường trong thời gian qua nhưng vẫn còn có một số hạn chế nhất định. Số lượng thẩm phán hành chính còn thiếu và rất ít nếu so với số lượng thẩm phán dân sự hay thẩm phán hình sự, nhất là trong điều kiện Luật Tố tụng Hành chính được ban hành năm 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm quyền thụ lý giải quyết các vụ án hành chính của tòa án nhân dân.

Về chuyên môn nghiệp vụ thì Thẩm phán hành chính bên cạnh kiến thức về pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ như các thẩm phán khác thì còn đòi hỏi phải có kiến thức và am hiểu về quản lý hành chính nhà nước mà quản lý hành chính nhà nước là một lĩnh vực rất rộng và nhiều trường hợp còn đòi hỏi phải có chuyên môn sâu (như: các lĩnh vực về thuế, sở hữu trí tuệ,…). Trong khi đó, việc đào tạo, bồi dưỡng riêng và chuyên sâu đối với tất cả các thẩm phán hành chính còn có những hạn chế, cần được quan tâm và đầu tư hơn nữa. Chúng ta có đáp ứng tốt điều kiện về con người (thẩm phán hành chính) thì mới có thể nâng cao được hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính tại tòa án.

Một số kiến nghị

Khi nghiên cứu, đánh giá về cơ chế tài phán hành chính tại tòa hành chính, một mặt chúng ta cần tìm ra những hạn chế để khắc phục nhưng mặt khác, chúng ta cũng cần coi đó là bước phát triển tất yếu từ chưa đến có, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của cơ chế này. Sau đây, xin được đưa ra một số kiến nghị về cơ chế tài phán hành chính tại tòa án nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính:

Một là, nghiên cứu xây dựng tòa án sơ thẩm khu vực theo định hướng cải cách tư pháp. Đây là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong cải cách tư pháp. Việc xây dựng tòa án sơ thẩm khu vực có ý nghĩa rất lớn đối với việc tòa án giải quyết các vụ án hành chính, góp phần tăng cường tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử vụ án hành chính của thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Qua đó, chất lượng giải quyết các vụ án hành chính sẽ được nâng cao, hiệu quả thi hành các bản án, quyết định của tòa án trong vụ án hành chính sẽ được nâng lên.

Hai là, chú trọng công tác đào tạo thẩm phán hành chính, thẩm phán hành chính phải là người vừa am hiểu pháp luật, nghiệp vụ của thẩm phán vừa phải am hiểu về quản lý hành chính nhà nước, sự hiểu biết toàn diện và sâu sắc về sự vận hành của nền hành chính, những đặc điểm và nguyên tắc của hoạt động công vụ nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Luật Tố tụng Hành chính được ban hành năm 2010 có rất nhiều điểm mới cơ bản so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2006) nên cần tiếp tục tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân tham gia trực tiếp vào việc thụ lý giải quyết các vụ án hành chính.

Ba là, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan cần tăng cường công tác hướng dẫn Luật Tố tụng Hành chính, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thi hành để Luật Tố tụng Hành chính nhanh chóng đi vào thực tiễn đời sống, tạo cơ sở cho các tòa án nhân dân địa phương thực hiện thống nhất các quy định của pháp luật. Các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp Luật Tố tụng Hành chính cần chú trọng đến những đặc điểm riêng có của án hành chính, đó là trong vụ án hành chính, cơ quan hành chính thường có ưu thế hơn, vì vậy, pháp Luật Tố tụng Hành chính cần có quy định tạo ra sự cân bằng giữa người khiếu kiện và người bị khiếu kiện.

Bốn là, việc thi hành các bản án, quyết định của tòa án trong vụ án hành chính có đặc điểm riêng, khác biệt với việc thi hành án trong vụ án hình sự, dân sự. Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 đã có một chương riêng quy định về thủ tục thi hành bản án, quyết định của tòa án về vụ án hành chính. Việc quy định này nhằm bảo đảm cho các bản án, quyết định của tòa án trong vụ án hành chính được thi hành nghiêm minh, kịp thời. Thực tế cho thấy, việc thi hành bản án, quyết định của tòa án trong vụ án hành chính có nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là trong trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính là bên thắng kiện. Vì vậy, Luật Tố tụng Hành chính cần quy định và hướng dẫn cụ thể việc thi hành án hành chính, có chế tài xử lý đối với các bên nếu không thực hiện bản án, quyết định của tòa án trong vụ án hành chính.

ThS. Nguyễn Danh Tú
Văn phòng Quốc hội