Bắc Ninh: đẩy mạnh cải cách hành chính

(QLNN) – Những năm qua, công tác cải cách hành chính (CCHC) ở tỉnh Bắc Ninh đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh và cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và đầu tư các nguồn lực lớn. Nhờ đó, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

                                                  

Thực trạng công tác cải cách hành chính của tỉnh Bắc Ninh

Thứ nhất, về cải cách thể chế và thủ tục hành chính (TTHC). Theo Báo cáo kết quả thực hiện công tác CCHC năm 2016 – 2017 và phương hướng, nhiệm vụ CCHC nhà nước tỉnh Bắc Ninh, HĐND và UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành hơn 100 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Đặc biệt, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả các VBQPPL do trung ương và địa phương ban hành, bảo đảm các văn bản thực sự đi vào cuộc sống, phục vụ đắc lực công tác quản lý nhà nước và phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh – quốc phòng ở địa phương.

UBND tỉnh đã sửa đổi, bổ sung đầy đủ, kịp thời bộ TTHC của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, huyện và xã áp dụng trên cơ sở các VBQPPL của Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành. Hiện nay, số TTHC được áp dụng trên địa bàn tỉnh là 1.706 TTHC, trong đó: 1.346 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, 237 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện; 87 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã và 36 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các đơn vị trực thuộc sở, ban, ngành.

UBND tỉnh đã công bố danh mục TTHC được tiếp nhận và trả kết quả qua dịch vụ bưu chính công ích (đợt 1), cụ thể: có 1.025/1.706 TTHC được áp dụng, trong đó cấp tỉnh: 942 TTHC, huyện: 95; xã: 24 và ngành Bảo hiểm xã hội: 30 TTHC. Cùng với đó, tiếp nhận, xử lý kịp thời, triệt để các phản ánh, kiến nghị của cá nhân tổ chức về TTHC.

Thứ hai, về tổ chức bộ máy hành chính. Căn cứ quy định của pháp luật, hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tế của địa phương, UBND tỉnh đã tiến hành xây dựng Đề án giải thể Sở Ngoại vụ; sáp nhập các phòng Tổ chức cán bộ và Văn phòng sở của 4 sở, ngành. Tổ chức lại tổ chức pháp chế của 2 sở; sáp nhập Trung tâm văn hóa, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng thành Trung tâm văn hóa tỉnh; Bệnh viện Y học cổ truyền và Bệnh viện phục hồi chức năng thành Bệnh viện Y học cổ truyền và Phục hồi chức năng; Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp và Trung tâm Giáo dục thường xuyên thành Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bắc Ninh.

Mặt khác, UBND tỉnh còn tập trung chỉ đạo phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền các cấp, nhất là phân cấp về tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức (CBCC), viên chức và cán bộ cấp xã theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với năng lực, trình độ của đội ngũ CBCC, viên chức và tình hình thực tế của địa phương. Qua đó, tạo điều kiện để các ngành, các cấp phát huy vai trò, trách nhiệm, chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao; đồng thời, nêu cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu.

Đột phá trong cải cách thủ tục hành chính ở Bắc Ninh
Người dân đến làm thủ tục hành chính tại Trung tâm Hành chính công TP Bắc Ninh (ảnh: Phan Thái Sơn)

Thứ ba, về chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức . Từ năm 2016 – 2017, đã tổ chức hơn 100 lớp đào tạo, bồi dưỡng cho CBCC, viên chức và đại biểu HĐND cấp huyện, xã với tổng kinh phí khoảng 7 tỷ đồng. Bắc Ninh cũng tiếp tục thực hiện đổi mới công tác bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý theo Quyết định số 634-QĐ/TU ngày 06/12/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh, trong đó yêu cầu những người được dự kiến, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử chức danh từ trưởng phòng đến giám đốc sở và tương đương phải trình bày chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đây là điểm mới trong công tác bổ nhiệm cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng có đủ tiêu chuẩn và điều kiện được quyền tham gia dự tuyển cạnh tranh khi bổ nhiệm cán bộ. Đặc biệt, tỉnh cũng đổi mới công tác thi tuyển giáo viên của UBND cấp huyện với hình thức thi 3 chung: “chung ngày, chung đề, chấm chung” bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư, về cải cách tài chính công. Nhìn chung, các cơ quan, đơn vị thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước đã được giao quyền tự chủ về tài chính theo quy định. Hiện nay, tổng số cơ quan, đơn vị là 343, trong đó số cơ quan, đơn vị đã triển khai thực hiện: 190 đơn vị, còn 153 đơn vị chưa thực hiện gồm: các xã, phường, thị trấn và các đơn vị khối Đảng. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã góp phần thúc đẩy các cơ quan sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu suất làm việc, từng bước hiện đại hóa quản lý, tăng thu nhập cho CBCC, viên chức.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được điều chỉnh theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, hiện đã được cơ quan tài chính phối hợp với các sở, ban, ngành, các huyện, thị xã, thành phố thực hiện. Tổng số đơn vị đã giao quyền tự chủ là 599 đơn vị, trong đó đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí: 6 đơn vị; đơn vị bảo đảm một phần kinh phí: 78 đơn vị; đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí: 515 đơn vị. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp thực hiện kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân chủ, sáng tạo của người lao động.

Thứ năm, về hiện đại hóa hành chính. Hiện nay, 100% các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị xã, thành phố đã có trang thông tin điện tử. 100% các dịch vụ công (DVC) trực tuyến của các cơ quan nhà nước đạt mức độ 2; số lượng DVC mức độ 3 triển khai với 335 DVC gồm: 245 DVC cấp tỉnh, 77 DVC cấp huyện, 13 DVC cấp xã, cho phép người dân và doanh nghiệp tìm hiểu quy trình thực hiện các TTHC cũng như các biểu mẫu báo cáo kèm theo. Qua đó, giảm thời gian thực hiện các TTHC, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.

Sở Thông tin và Truyền thông đã cấp được hơn 8.000 tài khoản thư điện tử cho CBCC, viên chức; phần mềm quản lý văn bản và điều hành đã triển khai đến 100% các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện và UBND cấp xã; đồng thời, tăng cường sử dụng hội nghị trực tuyến trong công tác triển khai nhiệm vụ, sơ kết, tổng kết. Tính đến ngày 31/12/2017, toàn tỉnh có 104 cơ quan hành chính nhà nước áp dụng hệ thống quản lý chất lượng TCVN ISO 9001:2008. Thông qua đó, tạo ra quy trình, lề lối, tác phong làm việc hiệu quả, văn minh, đúng quy định của pháp luật.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CCHC ở tỉnh Bắc Ninh vẫn còn một số hạn chế như sau:

– Ðổi mới trong phương pháp chỉ đạo, điều hành tuy đã có nhiều tiến bộ, song chưa thật sự tạo ra chuyển biến căn bản trong chỉ đạo, điều hành, thực thi công vụ. Vẫn còn một số lãnh đạo các sở, ngành chưa quyết liệt chỉ đạo điều hành CCHC trong cơ quan, đơn vị dẫn đến kết quả xếp hạng còn thấp.

– Kỷ luật, kỷ cương hành chính ở một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm; sự phối hợp ở một số cơ quan chưa thật sự chặt chẽ.

– Công tác xã hội hóa về các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa – thể thao chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Nguyên nhân của những hạn chế trước hết là do công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện CCHC ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa được người đứng đầu quan tâm thường xuyên, quyết liệt. Trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của một số CBCC làm công tác CCHC còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu tham mưu, triển khai, hướng dẫn, giám sát quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, công tác CCHC nhà nước với nội dung lớn, phức tạp; liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ từ công tác chỉ đạo, điều hành đến hệ thống VBQPPL và sự đầu tư nguồn lực cho công tác này.

Một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn tới

Để tiếp tục đẩy mạnh CCHC, thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tỉnh Bắc Ninh đang tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Một là, về cải cách thể chế. Tiếp tục đổi mới, nâng cao công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, các văn bản hướng dẫn chuyên ngành để phát hiện các nội dung không phù hợp nhằm đề xuất với cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.

Tăng cường kiểm tra, tự kiểm tra VBQPPL theo thẩm quyền, đôn đốc và theo dõi việc xử lý văn bản trái pháp luật của UBND các cấp; thực hiện rà soát, hệ thống hóa VBQPPL để kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn và quy định của pháp luật hiện hành. Bảo đảm công khai và tạo thuận lợi cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp tiếp cận các VBQPPL.

Hai là, về cải cách TTHC. Rà soát, hoàn thiện và công bố kịp thời các TTHC; công khai, minh bạch các TTHC, rút ngắn thời gian giải quyết các TTHC, đặc biệt là các TTHC có liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm túc công tác tiếp nhận, xử lý kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết TTHC cho người dân; tăng cường hiệu quả hoạt động của Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và cấp huyện.

Ba là, về cải cách tổ chức, bộ máy. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề để tiếp tục đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường; đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Rà soát việc quản lý, sử dụng biên chế hành chính, sự nghiệp của các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm việc quản lý sử dụng tiết kiệm, hiệu quả theo đúng quy định.

Bốn là, về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Tiếp tục hoàn thiện đề án vị trí việc làm của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức, viên chức.

Thực hiện hiệu quả kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp tỉnh, huyện, xã; nhất là năng lực và kỹ năng thực thi công vụ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp trong thực thi công vụ, đặc biệt là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Cùng với đó, cần nghiên cứu triển khai thực hiện quy định khung số lượng CBCC cấp xã cho phù hợp, xác định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh, đặc thù của tỉnh.

Năm là, về cải cách tài chính công. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế khoán biên chế và kinh phí tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số – kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao, dạy nghề…

Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp DVC; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo, khám, chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Sáu là, về hiện đại hóa nền hành chính. Xây dựng triển khai các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu dùng chung của tỉnh một cách đồng bộ theo kiến trúc chính quyền điện tử đã được phê duyệt. Duy trì tốt việc sử dụng thư điện tử, hệ thống quản lý các văn bản điều hành từ cấp tỉnh đến cấp xã; triển khai trang thông tin điện tử cấp xã nhằm tăng cường cung cấp thông tin và DVC trực tuyến, giúp cho việc trao đổi thông tin giữa Nhà nước và người dân, doanh nghiệp dễ dàng, minh bạch. Đẩy mạnh hiệu quả áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 trong các cơ quan hành chính.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2016 – 2017 và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước tỉnh Bắc Ninh trong những năm tiếp theo. Bắc Ninh, 2018.
2. Quyết định số 100/QĐ-UBND ngày 19/02/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2016 – 2020.
3. Quyết định số 717/QĐ-UBND ngày 07/6/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh về danh mục thủ tục hành chính được tiếp nhận và trả kết quả qua dịch vụ bưu chính công ích.
                                                                                        Nguyễn Trọng Tân
                                                                                      Sở Nội vụ tỉnh Bắc Ninh