Thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

(QLNN) – Tại Diễn đàn kinh tế tư nhân lần thứ 2 được tổ chức tại Hà Nội ngày 31/7/2017 để triển khai Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, kinh tế tư nhân sẽ là đầu kéo quan trọng để phát triển đất nước. Thủ tướng cũng khẳng định Chính phủ sẽ tạo mọi điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, hướng tới mục tiêu đóng góp 60% GDP trong giai đoạn tới.

 

Toàn cảnh Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam lần thứ 2/2017 (Ảnh: http://baodulich.net.vn/Nguyễn Hương).

Mặc dù có bước phát triển quan trọng trong thời gian qua, chiếm tỷ trọng 39 – 40% GDP hiện nay, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế…, tuy nhiên, kinh tế tư nhân (KTTN) vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn về nội lực xuất phát điểm, về môi trường sản xuất – kinh doanh, môi trường tâm lý xã hội, về cơ chế, chính sách quản lý nhà nước và đứng trước những thách thức to lớn trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Do vậy, tại Diễn đàn trên, khi được hỏi doanh nghiệp (DN) tư nhân “mong muốn điều gì nhất từ những thông điệp của Chính phủ” thì kết quả cuộc khảo sát khoảng 1.000 doanh nhân cho thấy: “65% mong muốn Chính phủ hành động, 24% liêm chính và 11% kiến tạo”1. Bởi vậy, năm 2018, Chính phủ đã đề ra phương châm cần thực hiện, đó là: kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới

KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Trước đổi mới, Việt Nam áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình của Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu. Trong mô hình này, sở hữu tư nhân và cá nhân bị coi nhẹ, mục tiêu phát triển quan hệ sản xuất là chủ yếu, xây dựng nền kinh tế hầu như khép kín, không tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, không coi trọng đúng mức vai trò của các ngành dịch vụ, không chú trọng phát triển quan hệ hàng hóa – tiền tệ và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế.

Mô hình này không phù hợp với điều kiện mới, làm cho tình hình kinh tế – xã hội của đất nước lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Trong thời kỳ đổi mới, tư duy của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), về phát triển KTTN đã có bước phát triển và từng bước bổ sung hoàn thiện hơn qua các kỳ Đại hội Đảng.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”2. Sau đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XII tiếp tục xác định rõ việc phát triển mạnh khu vực KTTN cả về số lượng và chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.

Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (2002- 2017) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN, trong bối cảnh mới, Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10 – NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghị quyết đã tạo động lực cho KTTN phát triển trong bối cảnh mới.

Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân

Thực hiện đường lối của Đảng, qua 30 năm đổi mới, KTTN (bao gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân) ở Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đặc biệt, sau khi Luật DN năm 2014 có hiệu lực, số DN mới được thành lập ngày càng tăng. KTTN không chỉ đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đặc biệt trong việc giải quyết công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, nguồn vốn nhàn rỗi mà còn tận dụng các nguồn lực xã hội, phục vụ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.

Theo Nghị định số 90/2001-NĐ/CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DN nhỏ và vừa, với tiêu chí quy mô vốn pháp định của DN dưới 10 tỷ đồng, số lượng lao động sử dụng dưới 300 lao động/năm thì hiện nay, khoảng 97% các DN của Việt Nam thuộc loại DN nhỏ và vừa, chủ yếu thuộc về khu vực KTTN. Điều này phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay, nhất là giai đoạn đầu của quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Về lĩnh vực hoạt động, phần lớn DN tư nhân hoạt động trong khu vực thương mại và dịch vụ (81%), phần còn lại (19%) hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Thực tế cho thấy, KTTN phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân. Một làn sóng khởi nghiệp mới đã hình thành sau khi Luật DN năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực. Đặc biệt, trong năm 2016 –  2017, cùng với cam kết của Thủ tướng Chính phủ quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển và hành động quyết liệt đã tạo xung lực mới cho KTTN phát triển. Số lượng DN đăng ký thành lập mới tăng ở mức ấn tượng, riêng năm 2016 là hơn 110.000 DN3; năm 2017 là 127.000 DN4.

Có thể thấy, đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của KTTN là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Riêng số DN nhỏ và vừa đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 – 26% lực lượng lao động cả nước. Tính tổng thể, khu vực KTTN thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 39 – 40% GDP của cả nước, trong đó theo thống kê, phần lớn đóng góp này từ khu vực kinh tế cá thể (30%) và chỉ khoảng 9 – 10% GDP từ các DN tư nhân5.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động của khu vực KTTN còn không ít hạn chế. Ngoài quy mô nhỏ, hạn chế nổi bật của khu vực KTTN là số đông lao động chưa được đào tạo, kỹ năng tay nghề thấp, trình độ tiếng Anh kém.

Bên cạnh đó, thách thức lớn nhất đối với khu vực KTTN trong quá trình hội nhập là khả năng cạnh tranh của các DN, các sản phẩm của nền kinh tế nói chung còn hạn chế, chậm được khắc phục. Trong nhiều năm, Việt Nam bị tụt bậc hoặc không cải thiện nhiều về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước được xếp hạng. Điều này cho thấy mặc dù có nhiều cố gắng, song môi trường đầu tư kinh doanh vào Việt Nam, có liên quan đến hoạt động của KTTN còn nhiều khó khăn, chậm được cải thiện.

Theo thống kê mới đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện có nhiều loại giấy phép kinh doanh có mục tiêu không rõ ràng, hiệu lực quản lý thấp, tạo cơ hội cho việc lạm quyền, gia tăng nhiều khoản chi phí không chính thức. Theo Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ tại phiên họp thường kỳ Chính phủ ngày 03/8/2017 thì: “có những bộ tồn tại tới hơn 1.200 giấy phép như Bộ Công thương, bộ ít nhất như Bộ Xây dựng cũng còn 106 giấy phép… Tổng số các bộ, ngành vẫn còn tới 5.719 thủ tục hành chính”6. Hơn nữa, Việt Nam cũng là một nước có tỷ lệ chi phí gia nhập thị trường của các DN thuộc loại cao nhất trong khu vực ASEAN7.

Nghiên cứu cho thấy, đối với một số DN, tiền chi phí “bôi trơn” còn lớn hơn cả tiền thuế phải nộp. Chính sự chi phí này cộng thêm sự bất lợi của quá trình sản xuất – kinh doanh là nguyên nhân chủ yếu làm cho giá thành sản phẩm của các DN tăng cao, khả năng cạnh tranh hạn chế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, Chính phủ lấy năm 2017 là năm giảm chi phí cho DN; giấy phép con và phí là hai cứ điểm mà Chính phủ xác định “tấn công” tổng lực trong thời gian tới.

Ngoài khó khăn trên, hiện nay, khu vực KTTN còn gặp một số trở ngại như:

Thứ nhất, khó khăn về môi trường pháp lý. Trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của khu vực KTTN hiện nay là môi trường pháp lý chưa đồng bộ, hoàn thiện: nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, hay thay đổi, phức tạp và chồng chéo, dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các DN lúng túng trong việc chấp hành pháp luật.

Thứ hai, mặc dù đóng góp đến 40% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tuy nhiên,  tình trạng bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh của DN tư nhân so với DN nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong việc tiếp cận mặt bằng sản xuất – kinh doanh, vay vốn ngân hàng, tiếp nhận thông tin… vẫn diễn ra. Sự bất bình đẳng này của KTTN tạo ra nhiều trở ngại, cộng thêm với xuất phát điểm có tới 97% DN thuộc loại DN nhỏ và vừa, dẫn đến nếu không được giải quyết căn bản tình trạng trên thì KTTN sẽ khó trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có định hướng và các biện pháp rất quyết liệt, xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và hành động phục vụ người dân, DN để phát triển kinh tế nói chung, trong đó có KTTN, tuy nhiên, ở nhiều bộ, ngành và địa phương, sự chuyển biến còn rất chậm…

Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII khẳng định, cần phát triển KTTN nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng để thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại  với các mục tiêu cụ thể:

–  Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực KTTN, số DN hoạt động tăng nhanh, đặc biệt là DN có quy mô lớn và vừa, phấn đấu để đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu DN, đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu DN và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu DN.

– Tốc độ và quy mô đầu tư phát triển lớn hơn các thành phần kinh tế khác. Tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế khoảng từ 1,2 – 1,5 lần. Phấn đầu tỷ trọng đóng góp GDP trong nền kinh tế tăng qua hằng năm, đến năm 2020 là khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 – 65%.

– Bình quân giai đoạn năm 2016 – 2025, năng suất lao động tăng khoảng 4 -5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của DN với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; nhiều DN của khu vực tư nhân có hoạt động đổi mới, sáng tạo, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu.

Để thực hiện được mục tiêu trên, việc xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính có vai trò quan trọng quyết định, theo đó, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, có tư tưởng chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, cơ chế, chính sách, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho KTTN phát triển lành mạnh, đúng định hướng.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTN.

Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập DN, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố tụng, xét xử, thi hành án, phá sản. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành chính công, nắm bắt và xử lý kịp thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan đến phát triển KTTN.

Nâng cao năng lực, hiệu quả phối hợp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và địa phương đối với KTTN, bao gồm cả việc bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động sáng tạo, phù hợp với đặc thù địa phương gắn với trách nhiệm. Hoàn thiện và công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế – xã hội, cơ sở dữ liệu, văn bản quy phạm pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều kiện cho người dân và DN tiếp cận khai thác và sử dụng.

Hai là, thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển KTTN. Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo mọi điều kiện phát triển KTTN, về chức năng của Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.

Phòng, chống có hiệu quả các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách đối với KTTN. Ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, đặc biệt phòng chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, “thao túng chính sách”, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.

Ba là, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi trong phát triển KTTN. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của KTTN theo cơ chế thị trường. Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Có cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập DN tư nhân; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để KTTN đầu tư, phát triển sản xuất – kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình DN thông qua các chính sách như: miễn, giảm thuế thu nhập DN, tiền sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn thủ tục thành lập DN, xây dựng phương án sản xuất – kinh doanh; tổ chức công tác tài chính, kế toán; cung cấp thông tin; hướng dẫn quản trị DN và tư vấn pháp luật.

Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển DN nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tạo tiền đề hình thành các tập đoàn KTTN sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, nông nghiệp.

Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTN phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của KTTN. Tạo điều kiện cho KTTN tham gia vào quá trình cơ cấu lại DN nhà nước thông qua góp vốn, mua cổ phần để hình thành các tổ chức sản xuất – kinh doanh hỗn hợp, có năng lực tài chính, quy mô hoạt động lớn, công nghệ và quản trị hiện đại, nhất là sớm phát triển các tập đoàn KTTN đa sở hữu có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.

Bốn là, hỗ trợ KTTN, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ trợ KTTN đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ.

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Khuyến khích, động viên tinh thần kinh doanh, ý chí khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng DN. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp trong toàn xã hội./.

Chú thích:
1. Mở rộng cửa cho kinh tế tư nhân. Báo Tuổi trẻ, ngày 01/8/2017.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016, tr. 102 -103.
3. Xuân khởi nghiệp 2017. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 20 – 30, ngày 24/01 – 04/02/2017.
4. 127 nghìn doanh nghiệp mới trong năm 2017. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 309, ngày 27/12/2017.
5. Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế. http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 06/6/2017.
6. Hãy nhóm lửa lên. Báo Tuổi trẻ, ngày 04/8/2017.
7. Giảm toàn diện các loại phí. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 190, ngày 10/8/2017.

     PGS.TSKH. Trần Nguyễn Tuyên
Hội đồng Lý luận Trung ương