Xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng trong bối cảnh cải cách hành chính

(QLNN) – Để xây dựng một Chính phủ kiến tạo phát triển, Chính phủ với vai trò là cơ quan thực hiện quyền hành pháp phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển. Theo đó, Chính phủ không làm thay người dân và doanh nghiệp, mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo, đóng góp cho xã hội.

 

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định ba khâu đột phá, gồm:

(i) hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính (CCHC);

(ii) phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ;

(iii) xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Theo đó, hoàn thiện thể chế và CCHC có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo lập nền tảng cơ bản cho việc đẩy mạnh cải cách, đổi mới chức năng, nhiệm của Chính phủ trong giai đoạn mới. Việc thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường; xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế – xã hội; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh kinh tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ.

Trên cơ sở thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã nêu nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 – 2016 là phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách để các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học và công nghệ được tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt, có tính cạnh tranh cao và gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới, được quản lý và giám sát hiệu quả. Quá trình tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường phải gắn liền với việc hạn chế tối đa độc quyền kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Đặc biệt, chuyển mạnh từ Nhà nước điều hành nền kinh tế sang Nhà nước kiến tạo phát triển. Trong Nhà nước kiến tạo phát triển, chức năng của Nhà nước là xây dựng quy hoạch phát triển theo chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đúng đắn; tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống.

Tăng cường xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực mà còn tạo điều kiện cho xã hội thực hiện những chức năng, công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn. Trong hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, Chính phủ phải vừa là thành viên tham gia các hoạt động với một “sân chơi chung”, với các quy tắc chung của cộng đồng quốc tế, vừa phải đưa ra các quy tắc mới, “luật chơi mới” để bảo đảm sự bình đẳng của tất cả các quốc gia thành viên và đạt được sự thịnh vượng chung của cộng đồng quốc gia, dân tộc.

Thực hiện việc xây dựng Chính phủ kiến tạo, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng trong bối cảnh CCHC

Trong chương trình lập pháp của Quốc hội khóa XIII đã có chủ trương sửa đổi và ban hành mới hàng chục đạo luật, trong đó có sửa đổi Hiến pháp năm 1992, sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước, sửa đổi hàng loạt đạo luật về tổ chức bộ máy Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân các cấp. Nếu trọng tâm của giai đoạn 2001 – 2005 là tạo dựng nền móng thể chế cho gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới thì trọng tâm của giai đoạn cải cách tới năm 2015 nhấn mạnh vào quá trình ban hành và thực thi các chính sách can thiệp của Nhà nước phù hợp hơn trong một môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao và hội nhập vào thị trường quốc tế.

Đặc biệt, trong quá trình cải cách thể chế kinh tế, thể chế kinh doanh đã có một bước đổi mới đáng kể, có tác động lớn tới sức cạnh tranh và sự phát triển của nền kinh tế, tới các quyết định đầu tư, tổ chức sản xuất – kinh doanh. Giữ vai trò trung tâm trong chính sách, chiến lược phân phối lợi ích và chia sẻ chi phí xã hội, hoàn thiện thể chế kinh doanh là nội dung hết sức quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.

Bằng việc ban hành mới và điều chỉnh, bổ sung các luật về kinh doanh, như Luật Cạnh tranh năm 2000, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008…, có thể nói, hệ thống pháp luật về kinh doanh đã tương đối đầy đủ và đồng bộ, bảo đảm cơ sở pháp lý để mở rộng các quyền về tự do kinh doanh cho tất cả các thành phần kinh tế. Toàn bộ các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều được tự do kinh doanh những hàng hóa và dịch vụ mà pháp luật không cấm. Chính sách về gia nhập thị trường, trong đó đặc biệt là khâu thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh đã tạo ra một bước đột phá cho sự phát triển của khu vực tư nhân.

Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực để đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo các cam kết quốc tế, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cắt giảm các hình thức trợ cấp không phù hợp và xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài… Môi trường kinh doanh cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cải thiện trên nhiều mặt, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được bình đẳng về pháp lý như các doanh nghiệp Việt Nam.

Ngày 26/11/2014, Quốc hội ban hành 2 luật sửa đổi cùng lúc 6 luật thuế: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế tài nguyên, Luật Quản lý thuế. Tư tưởng chủ đạo của các sửa đổi nói trên là giảm gánh nặng thuế và tạo thêm thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Để tạo sự bình đẳng cho khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời xã hội hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 về việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư để thực hiện một số dự án, tạo cơ sở nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP).

Quyết định này có ý nghĩa quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho việc đẩy mạnh hợp tác PPP ở Việt Nam; mặt khác, là động lực tạo ra bước đột phá mới để phát triển cơ sở hạ tầng, lĩnh vực hạ tầng giao thông, đặc biệt là những tuyến cao tốc lớn ở nước ta. Ngày 14/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư theo hình thức PPP, tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện dự án PPP ở Việt Nam. Nghị  định  có những quy định mới, như: quy định về hình thức các hợp đồng dự án, bao gồm hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT); hợp đồng xây dựng – chuyển giao – thuê dịch vụ (BTL) và hợp đồng xây dựng – thuê dịch vụ – chuyển giao (BLT).

Với khung chính sách đã qua nghiên cứu thông lệ quốc tế, đồng thời đáp ứng các tiêu chí về tính minh bạch, bình đẳng giữa các nhà đầu tư, Chính phủ Việt Nam đặt kỳ vọng thực hiện thành công chính sách đầu tư theo mô hình PPP, qua đó thu hút không chỉ nguồn vốn của khu vực tư nhân mà còn tham khảo trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý của khu vực này nhằm đóng góp cho phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ công.

Bên cạnh đó, thực hiện các biện pháp cải cách thủ tục hành chính (TTHC) theo Đề án 30, cải thiện môi trường kinh doanh theo Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 18/3/2014 về một số nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghị quyết đã đề ra gần 50 giải pháp, trong đó, trọng tâm là tập trung cải thiện các chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Với chỉ đạo sát sao và quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai thực hiện đồng thời 30 giải pháp, trong đó 10 giải pháp đã mang lại kết quả rõ nét.

Ngoài chỉ số khởi sự kinh doanh và bảo vệ nhà đầu tư được cải thiện đáng kể, thời gian nộp thuế và nộp bảo hiểm của doanh nghiệp đã giảm từ 872 giờ xuống còn khoảng 170 giờ/năm. Hồ sơ kê khai thuế được đơn giản hóa, không chỉ giảm chi phí tuân thủ mà còn giảm rủi ro cho doanh nghiệp vì nhầm lẫn hay sai sót trong việc kê khai. Thời gian và thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu cũng giảm đáng kể…

Trong quá trình thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011- 2020, Chính phủ luôn có những chỉ đạo quyết liệt triển khai thực hiện các nội dung của chương trình

Trong đó có nhiệm vụ trọng tâm là cải cách thể chế; xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ TTHC.

Kết quả CCHC, nhất là cải cách thể chế trong giai đoạn 2011 – 2015 vừa qua đã phản ánh công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện mục tiêu xây dựng một Chính phủ kiến tạo phát triển. Thể chế của nền hành chính được cải cách và dần hoàn thiện cơ bản; thể chế về xã hội hóa, hợp tác công – tư được ban hành và từng bước đi vào cuộc sống; chất lượng giải quyết TTHC được nâng cao rõ rệt; cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” tiếp tục được duy trì, mở rộng, giúp giải quyết hiệu quả TTHC cho người dân, tổ chức theo hướng công khai, minh bạch, thuận tiện. Đồng thời, đã thực hiện tăng cường đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức, lấy đó làm thước đo về chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính.

Bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương cũng được phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn; tính thống nhất, công khai, minh bạch được cải thiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều đổi mới; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính được triển khai một cách đồng bộ, từng bước phấn đấu theo hướng “Chính phủ điện tử”, “Chính quyền điện tử”.

Tuy nhiên, qua một nửa chặng đường thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011- 2020, có thể thấy, nền hành chính vẫn còn những hạn chế cần khắc phục, việc thiết lập và xây dựng Chính phủ kiến tạo chưa có bước đột phá quan trọng, thể hiện ở những nội dung sau:

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo CCHC chưa thực sự quyết liệt, việc quán triệt, tuyên truyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện, bố trí nguồn lực cho CCHC còn hạn chế; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở một số cơ quan, đơn vị chưa được thực hiện thường xuyên.

Hệ thống thể chế, pháp luật, trong đó có pháp luật về sản xuất – kinh doanh còn chưa đồng bộ và thiếu nhất quán, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mới, thể hiện ở việc một số luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng dẫn triển khai chậm được ban hành. Mức độ phù hợp giữa nội dung của văn bản quy phạm pháp luật với các điều ước quốc tế có liên quan còn hạn chế; công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật còn chậm. Nhiều yếu tố của môi trường kinh doanh chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, do đang trong quá trình vừa hình thành vừa hoàn thiện. Quá trình hoàn thiện thể chế kinh doanh diễn ra còn chậm so với cam kết hội nhập và mức độ tự do hóa thương mại và đầu tư.

TTHC trên một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực sản xuất – kinh doanh còn rườm rà, phức tạp. Số lượng TTHC thực hiện theo cơ chế “một cửa liên thông” còn ít. Cơ sở vật chất tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tuy đã được đầu tư nâng cấp nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính. Số lượng dịch vụ công cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4 còn hạn chế.

Việc đổi mới chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước còn chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Một số lĩnh vực quản lý nhà nước vẫn còn chồng chéo, vướng mắc. Phân cấp quản lý nhà nước chưa được thực hiện triệt để, nghiêm túc.

Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa thật thống nhất, thông suốt. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng mệnh lệnh hành chính chưa được chấp hành một cách nghiêm túc; kỷ luật, kỷ cương hành chính còn lỏng lẻo và thiếu quy định rõ ràng về quy trình giải quyết công việc ở các cơ quan hành chính. Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính chậm thay đổi, quy trình làm việc của các cơ quan hành chính nhìn chung còn thiếu tính chuyên nghiệp. Sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình giải quyết công việc còn thiếu chặt chẽ.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, thậm chí còn yếu, nhất là năng lực phát hiện vấn đề, tham mưu và đề xuất các biện pháp giải quyết. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.

Trước yêu cầu đòi hỏi của bối cảnh kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ đã xác định phải tiếp tục có những giải pháp đột phá để xây dựng một Chính phủ kiến tạo phát triển, bao gồm:

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính nhà nước. Sửa đổi, bổ sung, thiết lập các thể chế còn thiếu để điều chỉnh các quan hệ kinh tế – xã hội mới phát sinh theo tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế. Quan tâm tới chất lượng xây dựng hệ thống văn bản pháp luật theo hướng tạo môi trường bình đẳng cho các thành phần kinh tế để cải thiện môi trường kinh doanh.

Bảo đảm thể chế đi vào cuộc sống và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tự do cạnh tranh trên cơ sở pháp luật. Xây dựng và ban hành thể chế cụ thể, rõ ràng, minh bạch về danh mục các loại hình, quy mô của việc triển khai theo hình thức PPP trong từng lĩnh vực, tăng khả năng tiếp cận thông tin cho các đối tác tư nhân tiềm năng và tạo nên sự đồng thuận trong toàn xã hội.

Thứ hai, điều chỉnh chức năng của Chính phủ cho phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trên cơ sở đó xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện vai trò, chức năng quản lý nhà nước với các nội dung hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; nâng cao năng lực cán bộ, công chức cũng như chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của trung ương và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành trong việc triển khai.

Kiên quyết thực hiện việc chuyển giao mạnh các chức năng, nội dung công việc không thuộc chức năng của hệ thống hành chính cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, tổ chức doanh nghiệp, tư nhân đảm nhiệm theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức làm việc và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và cơ quan hành chính địa phương các cấp trong công tác CCHC. Người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp tăng cường tập trung công tác chỉ đạo, điều hành CCHC, chịu trách nhiệm hàng đầu về kết quả CCHC trước Đảng, trước toàn dân. Đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính và sử dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất của Chính phủ và hệ thống hành chính các cấp; đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Tạo dựng Chính phủ kiến tạo phát triển trên cơ sở xây dựng tư duy mới về mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Nhà nước tạo môi trường xúc tác cho sự phát triển, tạo điều kiện phát huy mọi nguồn lực xã hội. Tiến tới hạn chế và xóa bỏ cơ chế xin – cho. Nâng cao nhận thức để có sự đồng thuận giữa Nhà nước, tư nhân và xã hội trong việc triển khai các dự án theo hình thức PPP, tạo niềm tin cho khu vực tư nhân và xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh cải cách TTHC góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của bộ máy hành chính nhà nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế. Tiếp tục cải cách, đơn giản hóa các TTHC, nhất là TTHC liên quan đến người dân, doanh nghiệp; tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật quy định về TTHC của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, bãi bỏ các TTHC đang gây trở ngại cho phát triển sản xuất, kinh doanh. Các TTHC liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công cần phải phù hợp với điều kiện thực tế và khả thi; mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp về TTHC đạt mức trên 80% vào năm 2020.

Thứ năm, phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương để giải quyết các công việc về trật tự an ninh, phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương. Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa các nội dung bảo đảm tập trung, dân chủ, xây dựng một nền hành chính thống nhất, thông suốt, tập trung vào ba vấn đề cơ bản: hoạch định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia; đưa ra các tiêu chuẩn về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước; giám sát, kiểm tra chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân trong việc thực hiện các tiêu chuẩn do Chính phủ và bộ quản lý ngành, lĩnh vực quy định.

Tài liệu tham khảo:
1. Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020.
2. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/ 2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.
3. Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
4. Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư.
5. Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/ 2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư.
6. http://thutuong.chinhphu.vn
ThS. Phạm Minh Hùng – ThS. Nguyễn Mạnh Cường           
Bộ Nội vụ