Về hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm

(QLNN) – Ngày 28/02/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 19/2005/NĐ-CP quy định về điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm (GTVL), đánh dấu một bước ngoặt mới trong quản lý nhà nước (QLNN) về hoạt động dịch vụ việc làm (DVVL).

Trung tâm dịch vụ việc làm Ninh Bình (Ảnh: http://baodansinh.vn).
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm

Để quy định cụ thể hơn về điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức DVVL, đặc biệt là tạo điều kiện pháp lý cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động trong lĩnh vực DVVL, ngày 05/6/2008, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 71/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2005/NĐ-CP. Đồng thời, với việc Quốc hội thông qua Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật Việc làm năm 2013, Chính phủ có cơ sở để ban hành Nghị định số 196/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định về việc thành lập và hoạt động của trung tâm DVVL.

Đến nay, cả nước đã có 130 trung tâm DVVL đang hoạt động. Trong đó có 64 trung tâm DVVL do UBND tỉnh thành lập và giao cho ngành Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý; 3 trung tâm DVVL do UBND tỉnh thành lập và giao cho Ban Quản lý khu công nghiệp – khu chế xuất quản lý thực hiện các hoạt động tư vấn, GTVL, cung ứng, tuyển lao động và các hoạt động hỗ trợ cho lao động, người sử dụng lao động đang hoạt động trong phạm vi khu công nghiệp – khu chế xuất.

Có 6 trung tâm DVVL do Bộ Quốc phòng thành lập và giao cho các Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh phụ trách để thực hiện các hoạt động tư vấn, GTVL, cung ứng, tuyển lao động và các hoạt động hỗ trợ cho  bộ đội phục viên, người vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự; 57 trung tâm DVVL do thủ trưởng các cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị thành lập để thực hiện các hoạt động tư vấn, GTVL, cung ứng, tuyển lao động và các hoạt động hỗ trợ cho các đối tượng thuộc phạm vi quản lý, như: thanh niên, phụ nữ, người nông dân,…

Nhìn chung, các trung tâm DVVL trong những năm qua đã được các địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi về vị trí, địa điểm, điều kiện để hoạt động. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về hoạt động của trung tâm DVVL ngày càng hoàn thiện. Hệ thống khung pháp lý cho hoạt động DVVL đã quy định đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính; đội ngũ cán bộ phục vụ hoạt động GTVL; chức năng nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của tổ chức GTVL.

Qua đó, góp phần tăng cường công tác QLNN đối với hoạt động của các trung tâm DVVL. Hệ thống trung tâm DVVL ngày càng phát triển, không chỉ trong hệ thống ngành Lao động, Thương binh và Xã hội mà còn mở rộng ra các ngành, lĩnh vực khác. Ngoài ra, còn có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, qua đó phần nào đáp ứng được nhu cầu của người lao động, người sử dụng lao động.

Những hạn chế trong quản lý nhà nước các trung tâm dịch vụ việc làm

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các trung tâm DVVL trong thời gian qua cũng đã bộc lộ những điểm hạn chế, xuất phát từ những bất cập trong chính sách, cơ chế QLNN về hoạt động của các trung tâm DVVL và sự phối hợp, liên kết giữa hệ thống các trung tâm DVVL, trong đó có thể kể đến:

Một là, cơ chế, chính sách về tổ chức và hoạt động  DVVL mặc dù đã hình thành về cơ bản song vẫn còn thiếu và chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt là cơ chế tài chính của các trung tâm DVVL, việc thu phí GTVL, thuế… gây khó khăn trong quản lý và hoạt động của các tổ chức GTVL, thiếu hệ thống chính sách đồng bộ và dài hạn về hỗ trợ cho các trung tâm DVVL, đặc biệt là các chính sách đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị, chính sách cán bộ, chính sách đào tạo, chính sách tài chính, cụ thể:

Biên chế và tài chính của trung tâm DVVL được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/ 2006, tuy nhiên, đây là Nghị định quy định chung cho các đơn vị sự nghiệp có thu, các nội dung quy định phần nhiều mang tính định hướng, chưa tính đến đặc thù hoạt động của trung tâm DVVL, trong khi các văn bản hướng dẫn cụ thể vẫn chỉ đang trong giai đoạn dự thảo, chưa được ban hành.

Việc áp dụng các quy định của Nghị định vào hoạt động của các trung tâm DVVL gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế, rất nhiều trung tâm DVVL chỉ được giao biên chế một cách hình thức, không có quỹ lương và chi phí hành chính. Do vậy, trung tâm gặp nhiều khó khăn, hạn chế hiệu quả hoạt động, dẫn đến sự chệch hướng trong hoạt động của nhiều trung tâm: chỉ quan tâm đến hoạt động dạy nghề có thu mà không chú trọng đến hoạt động tư vấn, GTVL, thông tin thị trường lao động.

– Về thu phí từ các hoạt động tư vấn, GTVL, thông tin thị trường lao động: theo quy định tại Nghị định số 196/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định về thành lập và hoạt động của trung tâm DVVL, trung tâm DVVL được thu phí theo quy định của pháp luật.

Mặc dù vậy, văn bản hướng dẫn cụ thể về các mức phí, đối tượng thu phí, cơ chế quản lý phí hiện nay chưa được ban hành (chưa có thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 95/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 07/8/2007 hướng dẫn về phí giới thiệu việc làm) nên hầu hết các trung tâm DVVL và cơ quan chủ quản đều rất lúng túng, bị động.

Hai là, việc rà soát và quy hoạch hệ thống trung tâm DVVL của các bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị – xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức. Sau khi Nghị định số 196/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực, tỷ lệ các địa phương xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống trung tâm DVVL trên địa bàn cũng mới chỉ đạt 30%.

Ngoài ra, một số địa phương, tổ chức chính trị – xã hội ban hành quyết định thành lập mới trung tâm trong khi chưa bảo đảm những điều kiện tối thiểu để trung tâm thành lập và hoạt động theo quy định tại Nghị định số 196/2013/NĐ-CP. Một số địa phương, tổ chức chính trị – xã hội không tiến hành rà soát, thành lập lại trung tâm theo quy định của Nghị định số 196/2013/NĐ-CP mà mới chỉ dừng lại ở việc ra quyết định đổi tên.

Ba là, công tác chỉ đạo, phối hợp hoạt động giữa các trung tâm DVVL còn hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp các thông tin thị trường lao động, do vậy chưa phát huy được tối đa năng lực của hệ thống các trung tâm DVVL.

Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, đặc biệt với việc Việt Nam chính thức gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015, đòi hỏi lực lượng lao động năng động và thị trường lao động phát triển để đáp ứng chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.

Bên cạnh đó, Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 và Luật Bảo hiểm sửa đổi năm 2014được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho những chuyển biến mạnh mẽ về phát triển thị trường lao động Việt Nam. Bối cảnh đó, đòi hỏi cần có những giải pháp nhằm tăng cường QLNN đối với hoạt động của hệ thống các trung tâm DVVL trên toàn quốc. Theo đó:

Thứ nhất, Chính phủ cần sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách QLNN về hoạt động của các trung tâm DVVL như ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn về danh mục DVVL; định mức kinh tế – kỹ thuật áp dụng cho các trung tâm DVVL; khung giá DVVL; tiêu chí, quy mô, tiêu chuẩn đối với từng loại hình trung tâm DVVL.

Cần sớm ban hành những thông tư, văn bản hướng dẫn cụ thể (từ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Nghị định 196/2013/NĐ-CP) về các trung tâm DVVL, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm này, hạn chế những bất cập trong chính sách quản lý hiện nay.

Thứ hai, Chính phủ cần quy hoạch lại và xây dựng mạng lưới các trung tâm DVVL trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nhân lực cả nước, của từng ngành, từng vùng và từng địa phương trong từng thời kỳ, bảo đảm kết nối cung – cầu lao động, cơ hội việc làm của người lao động và phát huy năng lực, hiệu quả của các trung tâm DVVL hiện có, hình thành các trung tâm DVVL trọng điểm ở các vùng kinh tế trọng điểm và ở các tỉnh có thị trường lao động đặc trưng.

Căn cứ trên cơ sở quy hoạch mạng lưới của Chính phủ, các địa phương cần nghiên cứu thị trường lao động, nguồn nhân lực, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương mình để xây dựng các nội dung DVVL, cần tập trung thực hiện trong từng giai đoạn qua các trung tâm DVVL tại địa phương.

Đồng thời, xây dựng giải pháp gắn kết giữa các trung tâm DVVL, với doanh nghiệp và cơ sở đào tạo tại địa phương như: tăng cường chia sẻ thông tin thị trường lao động giữa 3 tổ chức trên, thông qua việc phát triển cơ sở dữ liệu “người tìm việc – việc tìm người”; đa dạng hóa các hình thức, phương pháp để cung ứng hiệu quả các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và cơ sở đào tạo…

Thứ ba, Chính phủ chỉ đạo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện chính sách quản lý, trong đó có quy định cụ thể các tiêu chí về diện tích trụ sở làm việc; các phòng chức năng; định mức trang thiết bị, phương tiện làm việc và trình độ nhân lực, đáp ứng nhu cầu chuyên môn theo từng hoạt động của các trung tâm DVVL; quy định cụ thể về tuyển dụng và tiền lương cho cán bộ ở các trung tâm DVVL nhằm thu hút người có khả năng và nhiệt tình vào làm việc tại các trung tâm này.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực DVVL tại hệ thống các trung tâm DVVL phù hợp với bối cảnh kinh tế hội nhập. Hoàn thiện hệ thống tổ chức đào tạo và thi cấp chứng chỉ đánh giá kỹ năng nghề quốc gia đối với cán bộ DVVL; hoàn thiện các tiêu chí đánh giá và các quy định về xếp hạng các trung tâm DVVL.

Thứ tư, Chính phủ phân bổ ngân sách đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị cho các trung tâm DVVL đạt tiêu chuẩn theo hướng dẫn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; từng bước hiện đại hóa, bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động DVVL.

Nguồn vốn chủ đạo là vốn ngân sách nhà nước (của trung ương và địa phương), vốn huy động từ các nguồn tài chính hợp pháp khác, trong đó nguồn vốn ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư củng cố, phát triển mạng lưới trung tâm DVVL.

Trong thời gian tới, tăng dần tỷ lệ nguồn vốn xã hội hóa, vốn đầu tư từ các doanh nghiệp, tổ chức trong nước và quốc tế có nhu cầu tuyển dụng, đào tạo, sử dụng lao động trong chi phí vận hành và thực hiện DVVL đối với hệ thống các trung tâm DVVL./.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Lao động năm 2012.
2. Luật Việc làm năm 2013.
3. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014.
4. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/ 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
5. Nghị định số 196/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định về việc thành lập và hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm.
6. Nghị quyết số 01/2004/NQ-CP ngày 12/01/2004 và Quyết định số 51/2004/QĐ-TTgngày 31/3/2004 về việc xây dựng các trung tâm dịch vụ việc làm khu vực tại các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia.
7. Tổng cục Dạy nghề. Báo cáo tổng quan về đào tạo nghề ở Việt Nam.
8. Tổng cục Dạy nghề. Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2013 – 2014.
ThS. Vũ Minh Ngọc
Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh