Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ

 (QLNN) – Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), đến nay, đội ngũ cán bộ các cấp đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín và bảo đảm nguồn cán bộ quy hoạch chuyển tiếp giữa các thế hệ.

 

Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XII) (Nguồn: Internet).
Thực trạng đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay

Xác định rõ tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm và ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, cần thiết, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997); Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018); Hiến pháp năm 2013; Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và nhiều văn bản hướng dẫn, đã tạo cơ sở pháp lý để từng bước xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ các cấp.

Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), đến nay, đội ngũ cán bộ các cấp đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín và bảo đảm nguồn cán bộ quy hoạch chuyển tiếp giữa các thế hệ.

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh và chất lượng chưa thực sự cao. Ở không ít địa phương, trong nhiều vụ việc cụ thể diễn ra, về năng lực lãnh đạo của cán bộ còn nhiều hạn chế, thiếu năng động, chủ động trong giải quyết công việc; thậm chí, có nơi vẫn để tồn tại tình trạng thiếu dân chủ, quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân.

Về tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số (DTTS) chưa đạt mục tiêu đề ra. Theo báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương thì tổng số cán bộ nữ là người DTTS ở các cơ quan, đơn vị trực thuộc trung ương là 7.521 người, trong đó có 17,5% giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (LĐQL) từ cấp vụ trở lên. Ở cấp tỉnh, tổng số cán bộ nữ là 5.814 người, trong đó có 714 người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ cấp sở và tương đương trở lên (12,3%). Cấp huyện có 249 người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong 2.495 cán bộ nữ (10%); ở cấp xã là 3.030/29.224 (tương đương 10,4% cán bộ nữ)1.

Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ người DTTS giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị, địa phương cũng còn bất cập. Chẳng hạn, như ở Ủy ban Dân tộc, mới có tỷ lệ tối thiểu là 15% trên tổng số cán bộ là người DTTS. Trong khi quy định là, các đơn vị thuộc Ủy ban Dân tộc phải có ít nhất một chức danh cấp trưởng hoặc cấp phó là người DTTS trong quy hoạch, bổ nhiệm các chức danh LĐQL.

Tỉnh có tỷ lệ tối thiểu là 10% trên tổng số cán bộ người DTTS trên địa bàn. Ở huyện có tỷ lệ tối thiểu là 20% trên tổng số cán bộ người DTTS trên địa bàn và xã có tỷ lệ tối thiểu là 30% trên tổng số cán bộ, công chức (CBCC) người DTTS trên địa bàn. Giai đoạn 2016 – 2018: đạt tối thiểu 50% các tỷ lệ nêu trên; giai đoạn 2019 – 2020 và những năm tiếp theo: đạt các tỷ lệ nêu trên2.

Về năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; thiếu những cán bộ LĐQL giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Về quy hoạch và việc chuyển tiếp giữa các thế hệ cũng đang là thách thức lớn.

Việc đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể. Công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh, dẫn đến tình trạng sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử dù đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc.

Những năm gần đây, mặc dù một số bộ, ngành, địa phương đã ứng dụng phần mềm trực tuyến trong công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch cán bộ song vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu…

Nguyên nhân của tình trạng này là do nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực.

Chưa có tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài (như về cơ hội thăng tiến trong công việc; công tác bầu cử, tuyển dụng; bố trí công việc, sử dụng hợp lý; đánh giá đúng về vị trí, vai trò của cán bộ các cấp; công tác ĐTBD theo nhu cầu thực tế công việc; chế độ, chính sách đãi ngộ)…

Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.

Bên cạnh đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 cũng gặp nhiều thách thức. Theo kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2016 – 2017, trình độ công nghệ của Việt Nam chỉ đứng thứ 92/138 quốc gia được khảo sát; chỉ số đánh giá về công nghệ chỉ đứng thứ 106; tiếp thu công nghệ đứng thứ 78…

Đặc biệt, năng lực sáng tạo, đổi mới đứng thứ 73/138 quốc gia3. Đối với những lao động văn phòng, trí thức, lao động kỹ thuật sẽ có những thay đổi về hình thức giao tiếp trên internet, chắc chắn sẽ đặt đội ngũ cán bộ trước những thách thức về tài chính, đặc biệt là về thông tin cá nhân nếu không được bảo mật một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động trực tiếp đến công tác LĐQL bởi nếu cán bộ không hiểu về tính tất yếu của sự thay đổi quy trình trong bối cảnh phát triển mạng xã hội, tận dụng mạng xã hội để LĐQL, tạo liên kết và hiệu ứng lan tỏa thông tin, nguy cơ khủng hoảng trong quá trình tích hợp với mạng xã hội,… thì khó có thể thích ứng với môi trường số.

Mục tiêu và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo Nghị quyết số 26-NQ/TW

Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đặt ra mục tiêu cụ thể, trong đó xác định đến năm 2030 tập trung vào việc: “xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ”. Cụ thể là: đối với cán bộ cấp chiến lược: thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 – 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế (đối với quân đội, công an có quy định riêng của Bộ Chính trị).

Ðối với cán bộ LĐQL cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở trung ương: từ 20 – 25% dưới 40 tuổi; từ 50 – 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Ðối với cán bộ LĐQL ở địa phương: từ 15 – 20% cán bộ LĐQL cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 – 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 – 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp.

Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 – 25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào DTTS, phải có cán bộ lãnh đạo là người DTTS phù hợp với cơ cấu dân cư.

Để đạt được mục tiêu của Nghị quyết số 26-NQ/TW đề ra, trong thời gian tới, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, ĐTBD và luân chuyển cán bộ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực.

Gắn quy hoạch với ĐTBD theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ LĐQL trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài. Quy định chế độ tiến cử, giới thiệu những người có tài năng để tuyển dụng, bổ nhiệm vào các vị trí trong hoạt động công vụ…

Xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện công tác quy hoạch gắn với công tác bố trí, sử dụng, đánh giá, ĐTBD nguồn nữ cán bộ vào các chức vụ, chức danh LĐQL các cấp tại các cơ quan, tổ chức nhà nước với các chỉ tiêu cụ thể và giải pháp khả thi… Hỗ trợ việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ nữ nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí LĐQL và các cơ quan dân cử, đặc biệt đối với nữ lãnh đạo trẻ, nữ lãnh đạo là người DTTS4.

Thứ ba, chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ. Coi trọng trang bị kiến thức về công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.

Thứ tư, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.

Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và LĐQL đội ngũ cán bộ. Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ LĐQL trong hệ thống chính trị một cách phù hợp.

Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.

Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.

Xây dựng mô hình tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng giảm đầu mối, tránh chồng chéo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và LĐQL tổ chức, biên chế, công tác cán bộ, xây dựng và LĐQL đội ngũ cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đẩy mạnh cải cách hành chính; chuẩn hóa văn bản pháp quy; tin học hóa, tự động hóa trong LĐQL và điều hành.

Coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các cấp, các ngành; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình công tác cán bộ. Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và những chủ trương thí điểm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.

Thứ sáu, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0.

Đồng bộ hóa đội ngũ cán bộ đủ bản lĩnh, nhân cách và năng lực tương ứng. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và trên hết, đòi hỏi phải có sự tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao. Mặt khác, cần chú trọng đổi mới phương pháp tiếp cận, tăng cường đối thoại, trao đổi, tranh luận, đây là một trong những đặc trưng quan trọng nhất, nhằm khắc phục tình trạng truyền thống trong LĐQL…

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các phương pháp hiện đại trong LĐQL; chủ động chọn lọc, xử lý thông tin, bảo đảm nguồn thông tin chính thống, thông tin có định hướng, tránh rơi vào “cái bẫy” của các thế lực thù địch, phản động.

Thứ bảy, quán triệt và vận dụng quan điểm Đại hội XII của Đảng về chủ trương: gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Củng cố, phát triển tính chủ động cho mỗi cán bộ, từ trung ương đến từng địa phương một cách tích cực, sát thực. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 phải hướng đến mục đích, nội dung bảo đảm được tính dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc. Tinh thần dân tộc phải được các cơ quan tiếp nhận, chuyển hóa thành thái độ, động cơ, niềm tin, ý chí và hành vi ứng xử của mỗi con người Việt Nam một cách bền vững nhất.

Thứ tám, tăng cường chỉ đạo thống nhất từ trung ương đến địa phương; bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, giữa các chương trình, đề án; cung cấp đầy đủ tài chính và các nguồn lực cần thiết.

Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC được triển khai trên diện rộng trong bộ máy hành chính các cấp. Để thống nhất thực hiện kế hoạch chung theo lộ trình, cần bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến các bộ, ngành ở trung ương và các cấp chính quyền ở địa phương.

Lãnh đạo, cấp uỷ và thủ trưởng các cơ quan quản lý ở các bộ, ngành, địa phương cần chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đã đề ra, coi đó là một nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong các hoạt động chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.

Nguồn tài chính phải dựa vào ngân sách nhà nước là chính, nhưng cần huy động sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế dưới hình thức các dự án, chương trình.

Thứ chín, tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương; nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của CBCC.

Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của CBCC được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của CBCC và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc khó khăn, nguy hiểm, độc hại.

Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của CBCC. Thực hiện việc khoán kinh phí chi trả phụ cấp cho những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, từng bước thay thế việc trả lương từ nguồn ngân sách nhà nước bằng nguồn thu sự nghiệp.

Thứ mười, thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC.

Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, bảo đảm đến năm 2021 giảm được 10% so với biên chế giao năm 2015. Hoàn thiện tiêu chí để xác định biên chế công chức, số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập, cơ cấu công chức của các bộ, ngành, địa phương, gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, tính chất công việc, tiêu chuẩn chức danh CBCC và trên cơ sở xác định vị trí việc làm một cách khoa học, sát thực tế.

Hoàn thiện quy định về số lượng lãnh đạo cấp phó tối đa trong các cơ quan hành chính nhà nước. Quản lý chặt chẽ biên chế trong các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước. Chấm dứt việc tự phê duyệt và giao biên chế công chức, số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập vượt quá số lượng đã được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc thẩm định; chấm dứt sử dụng lao động hợp đồng để làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ có tính chất thường xuyên trong cơ quan hành chính nhà nước. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện tinh giản biên chế và sắp xếp lại đội ngũ CBCC theo đề án vị trí việc làm, bảo đảm thực hiện nghiêm yêu cầu của Trung ương về vấn đề này; coi đây là một tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị5./.

Chú thích:
1. Tăng cường cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số: Cần đi vào thực chất. https://moha.gov.vn, ngày 23/10/2018.
2. Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14 /3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới.
3. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF ASEAN). Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2016 – 2017. Hà Nội, 2018.
4. Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 02/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020.
5. Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội khóa 14 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.

PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Học viện Báo chí và Tuyên truyền