Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bảo đảm quyền con người, quyền công dân

(QLNN) – Nguyên tắc Nhà nước chỉ được coi là một pháp nhân như tất cả các chủ thế pháp lý khác trong xã hội cho phép chế ước hoạt động của quyền lực công cộng trong khuôn khổ của thể chế pháp quyền, trước tiên và cơ bản dựa trên các nguyên tắc hiến định. Trong khuôn khổ đó, các quy định, quyết định mà nhà nước đưa ra hoặc ban hành phải tuân thủ toàn bộ thể chế pháp quyền và không được quyền hưởng bất kỳ ưu tiên nào về mặt tài phán. Các pháp nhân cũng như các cá nhân đều bình đẳng trước luật pháp.

 

Tranh của tác giả Lê Hoàng Bích Ngọc (http://hueuni.edu.vn).
Về đặc điểm của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay
Nhà nước pháp quyền là một hình thức Nhà nước cộng hòa. Vào đầu thế kỷ XX, Hans Kelsen – nhà luật học người Mỹ gốc Áo đã định nghĩa lại khái niệm nhà nước pháp quyền vốn có nguồn gốc từ Đức, là một nhà nước, trong đó các quy phạm pháp luật được sắp xếp và thực hiện có trật tự thành một hệ thống thể chế quản trị hay pháp trị của luật để chế ước quyền lực của xã hội, đặc biệt của nhà nước, nhằm hạn chế sự tùy tiện hoặc sự lạm quyền, nhất là từ phía nhà nước. Nhà nước chỉ được coi là một pháp nhân như tất cả các chủ thế pháp lý khác trong xã hội.

Trong thể chế pháp quyền, cơ quan tài phán có vị trí tối cao – đương nhiên trong khuôn khổ pháp trị của luật, vì chỉ nó mới có quyền phán xử tính đúng sai của luật; do đó, tính độc lập của cơ quan tư pháp là bắt buộc. Một mô hình như thế quy định sự tất yếu phải phân chia quyền lực với một hệ thống tư pháp độc lập. Những quy định trái với Hiến pháp với tư cách là bộ luật gốc của nền luật pháp, có thể bị xem xét bởi một thể chế bảo hiến phù hợp với mỗi quốc gia.

Ở nước ta, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Tổng Bí thư Đỗ Mười nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng năm 1994 cũng như các văn kiện khác của Đảng và Nhà nước.

Với Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Về bản chất, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Từ bản chất đó, Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam có 5 đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013).

Đại hội XII của Đảng yêu cầu phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Thứ hai, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật: Hiến pháp quy định những điều luật nền tảng cho toàn bộ nền luật pháp của chế độ xã hội và những điều luật này vừa được thực hiện một cách trực tiếp, vừa có thể được cụ thể hóa thành bộ luật hoặc luật để thực hiện tùy theo sự đòi hỏi của thực tế xã hội.

Cần nhấn mạnh rằng, nếu Hiến pháp không được thực hiện trực tiếp trong xã hội và nếu Hiến pháp không được liên thông với các bộ luật và luật của đất nước thì Hiến pháp rất khó được thực hiện trực tiếp, và nền tảng luật pháp của đất nước bị hạn chế căn bản.

Thông qua đó, Hiến pháp quy định cấu trúc (khuôn mẫu) cho nền quản trị của luật trong xã hội. Với vị trí, vai trò như vậy của Hiến pháp nên quyền lập hiến phải trực tiếp thuộc về toàn thể nhân dân để thể hiện một cách căn bản tư tưởng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Chỉ với tính chất như vậy, Hiến pháp mới giữ vị trí tối cao trong hệ thống thể chế pháp quyền.

Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp nói riêng và luật pháp nói chung. Các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân (Điều 8 Hiến pháp năm 2013).

Mọi chủ thể trong xã hội (Nhà nước, các tổ chức chính trị và xã hội, tập thể và cá nhân) đều phải tuân thủ nền pháp trị hay quản trị của luật mà Hiến pháp là bộ luật gốc và quy định khuôn khổ cho nền luật pháp.

Thứ ba, sự bình đẳng của mọi cá nhân và thể nhân (Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội,…) trong thụ hưởng và phát triển quyền, không phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội: trong Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước và các thể nhân, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Tức là Nhà nước pháp quyền phải xác lập được thể chế bảo đảm cho mọi thể chế nhà nước và xã hội, tập thể và cá nhân, không đòi hỏi cái ở ngoài hoặc ở trên những điều được quy định trong Hiến pháp và luật pháp nói chung.

Các thể chế, nhất là thể chế hành pháp, tồn tại, hoạt động không rời rạc, mà là một thể thống nhất, chế ước lẫn nhau. Bởi tính hiệu lực, hiệu quả của mỗi thể chế chỉ có được khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy tính hiệu lực, hiệu quả của thể chế liền sát bên trên và liền sát bên dưới, cũng như tất cả các thể chế khác.

Trong điều kiện, môi trường thể chế như vậy, chỉ tòa án mới có quyền phán xử việc tuân thủ luật pháp. Việc thực hiện luật pháp được bảo đảm bằng một hệ thống tòa án độc lập. Hệ thống tòa án độc lập bảo đảm cho công dân có đủ khả năng và điều kiện chống lại sự tùy tiện hay sự lạm quyền của Nhà nước. Trên cơ sở đó hình thành, phát triển một cơ chế chặt chẽ để kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của luật pháp và các hoạt động, kể cả hành vi của bộ máy lập pháp và hành pháp, ở ba khía cạnh: tổ chức; văn bản pháp luật (Hiến pháp, luật, văn bản quản lý hành chính các cấp); đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ tư, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật: Điều 4 Hiến pháp năm 2013chế định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tức là trong khuôn khổ luật pháp.

Thứ năm, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân: quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân, được pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.

Với 5 đặc điểm nêu trên, thể chế pháp quyền XHCN bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, đồng thời chế ước quyền lực của Nhà nước và xã hội trong khuôn khổ thể chế pháp quyền hay trong khuôn khổ luật pháp. Vì thế, nó có năng lực kết nối chặt chẽ và cũng thể hiện cho thể chế dân chủ XHCN, nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong quá trình xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng XHCN.

Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay

Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhà nước thực hiện các biện pháp về thể chế lập pháp, hành pháp, tư pháp và quản lý chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người, quyền công dân trong hoạt động của Nhà nước và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp, đặc biệt trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy quyền con người trong thực tế.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng (tháng 01/2016) xác định phương hướng: hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN. Hiện nay, việc triển khai thực hiện phương hướng này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, nội dung bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, gồm:

– Công nhận (obligation to recognition): các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu là Nhà nước, công nhận và phải ghi nhận ngày càng đầy đủ, cơ bản bằng các thể chế pháp luật và đạo đức (nhất là đối với các tổ chức xã hội), các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa của con người.

– Tôn trọng (obligation to respect): các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu là Nhà nước, phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp và gián tiếp, vào việc thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, phải chủ động xây dựng và triển khai, thực hiện có hiệu quả các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý cụ thể để mọi người được thụ hưởng và phát triển các quyền của mình trong thực tế.

– Bảo vệ (obligation to protect): Nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người, quyền công dân từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội và cá nhân; ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử, hoặc sự hình thành các thế lực đe dọa quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực; điều tra, trừng trị và phục hồi các quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường bất cứ khi nào có thể.

– Thực hiện (obligation to fulfil): Nhà nước chủ động xây dựng thể chế (pháp luật, quy chế và thiết chế) cũng như các chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển, biện pháp quản lý cụ thể để bảo đảm cho mọi người được hưởng thụ đến mức cao nhất có thể các quyền con người, quyền công dân.

Việc thực hiện chỉ được bảo đảm khi các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý được đề ra (hay xây dựng) phải mang tính khả thi và hiệu quả, chứ không phải chúng được đề ra một cách hình thức, đặc biệt trong quá trình thực thi các quyền con người, quyền công dân của các nhóm yếu thế.

Nói cách khác, việc bảo đảm thực hiện không chỉ coi trọng khâu đề ra (hay xây dựng) các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình, phát triển và biện pháp quản lý cụ thể mà đặc biệt coi trọng khâu tổ chức, triển khai thực hiện nhằm đạt được kết quả thực tế trong việc thụ hưởng các quyền con người, quyền công dân.

Cần phải nhấn mạnh phương châm này, vì một đặc trưng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân là: coi trọng quá trình tổ chức, triển khai thực hiện thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển không kém việc đạt được mục tiêu đề ra.

– Thúc đẩy (obligation to promote): là tạo lập điều kiện và môi trường kinh tế nói riêng và xã hội nói chung, mang tính hỗ trợ, thuận lợi cho việc tiếp cận quyền con người, quyền công dân của các nhóm xã hội, đặc biệt các nhóm yếu thế; đồng thời thiết lập và duy trì một cơ chế minh bạch, hiệu quả để giám sát quyền con người ở cả khu vực công và tư, theo thể chế pháp quyền XHCN.

Thúc đẩy quyền con người, quyền công dân đòi hỏi Nhà nước và các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền không chỉ thụ động, kiềm chế không can thiệp vào công tác bảo đảm quyền của các cá nhân và tập thể, mà quan trọng hơn là phải chủ động xây dựng và triển khai, thực hiện các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình, biện pháp quản lý cụ thể để hỗ trợ các cá nhân và tập thể có điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc thụ hưởng cũng như phát triển các quyền của mình.

Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong thực tế

Từ những nội dung bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Nhà nước pháp quyền XHCN nêu trong Hiến pháp năm 2013, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, công tác bảo đảm quyền con người,quyền công dân đã và đang được thực hiện trong thực tế theo các phương hướng sau:

Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện, phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển kinh tế tri thức, phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ nhằm phát triển nhanh, bền vững trong hội nhập quốc tế.

Hai là, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

Ba là, hoàn thiện, phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, tính công khai, minh bạch trong năng lực quản lý của Nhà nước, nhất là quản lý kinh tế.

Năm là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng./.

Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội lần thứ XII của Đảng. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 15/01/2016.
PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh