Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài ở TP. Hồ Chí Minh

(QLNN) – TP. Hồ Chí Minh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – khu vực phát triển năng động nhất cả nước, nơi đây là trung tâm kinh tế, giữ vai trò then chốt trong sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đồng thời là địa phương có các chính sách đổi mới và các điều kiện thuận lợi về pháp lý giúp thị trường lao động hình thành và phát triển nhanh, thu hút một lượng lớn lao động không những trong nước mà còn cả ngoài nước đến làm việc.

 

Công tác quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài tại TP. Hồ Chí Minh

Hiện nay, số lao động nước ngoài (LĐNN) tại TP. Hồ Chí Minh được cấp giấy phép còn hiệu lực và số lao động có xác nhận không thuộc diện cấp phép là 19.534 người đang làm việc tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhà thầu. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có số lượng lao động chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động nước ngoài làm việc tại thành phố, gồm: Nhật Bản: 3.017 người (15,5%); Hàn Quốc: 3.041 người (15,5%); Trung Quốc: 1.993 người (10,2%); Anh: 1.532 người (7,8%); Đài Loan: 1.614 người (7,6%); Hoa Kỳ: 1.393 người (5,9%), Pháp: 1.014 người (5,2%), số lao động thuộc quốc tịch khác là 3.262 người (16,69%)1.

Ảnh minh họa (Theo chinhphu.vn).

Với lượng đông đảo LĐNN tập trung tại TP. Hồ Chí Minh, cơ quan QLNN về lao động của thành phố luôn xác định cần tổ chức tốt các mặt hoạt động QLNN đối với LĐNN. Trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã tiến hành các mặt công tác QLNN đối với LĐNN và đạt được những kết quả khả quan như:

Một là, xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản pháp lý để tổ chức QLNN đối với người LĐNN.

Từ năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, có thể xem đây là văn kiện pháp lý cho phép LĐNN đến làm việc tại Việt Nam. Từ năm 1990, Luật được nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam cũng như bảo đảm các cam kết với cộng đồng quốc tế, hiện nay là Luật Đầu tư năm 2014, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và trên cơ sở các văn bản hướng dẫn.

Cụ thểnhư: Nghị quyết số 47/NQ-CP ngày 08/7/2014 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2014; Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về LĐNN tại Việt Nam; Thông tư số 41/2014/TT-BCT ngày 05/11/2014 của Bộ Công Thương quy định căn cứ, thủ tục xác định người LĐNN di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp (DN) thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới không thuộc diện cấp giấy phép lao động…

Theo đó, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện và điều hành sát hợp với thực tiễn địa phương, như: Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 03/01/2014 về việc ủy quyền xem xét chấp nhận việc sử dụng LĐNN theo Nghị định số 102/2013/NĐ-CP của Chính phủ; Công văn số 4279/UBND-VX ngày 27/8/ 2014 về việc cấp giấy phép lao động cho lao động là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam; Quyết định số 5467/QĐ-UBND ngày 06/11/2014 về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, sửa đổi, bổ sung thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội…

Tất cả những văn bản trên đã tạo ra công cụ pháp lý hữu hiệu để các cơ quan chức năng triển khai hoạt động QLNN đối với LĐNN.

Hai là, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về LĐNN cho người sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn thành phố.

Cơ quan chức năng đã tiến hành tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với LĐNN với nhiều hình thức đa dạng và phong phú, tạo được hiệu ứng tích cực từ người sử dụng lao động và người LĐNN như: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tổ chức các hội nghị đối thoại chính sách trực tiếp với DN có sự tham dự của Sở Tư pháp, Sở Ngoại vụ, Công an Thành phố để hướng dẫn, giải đáp các thắc mắc cho DN về việc người LĐNN vào Việt Nam làm việc.

Bên cạnh đó, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội phối họp chặt chẽ với các hiệp hội DN của các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Ốt-xtrây-li-a, Hiệp hội châu Âu… để thông tin các quy định có liên quan đến người LĐNN khi đến Việt Nam làm việc. Việc đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng hình thức đối thoại chính sách, trả lời cụ thể từng vấn đề, từng nội dung, từng câu hỏi, từng thắc mắc của DN từ các cơ quan chức năng có liên quan (do chính các bộ phận phụ trách, như Phòng Việc làm của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Phòng Lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp, Phòng Lãnh sự của Sở Ngoại vụ, Phòng Xuất nhập cảnh của Công an Thành phố) về thủ tục, hồ sơ cấp giấy phép lao động, quản lý LĐNN. Các DN đã phản hồi, đánh giá cao về hình thức đối thoại chính sách, đã đáp ứng được yêu cầu giải quyết những, khó khăn, vướng mắc của DN.

Ba là, áp dụng các tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật trong tổ chức QLNN đối với LĐNN trên địa bàn thành phố.

Trong thời gian qua, cơ quan quản lý đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật để tăng cường hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này, như: xây dựng hệ thống thông tin quản lý, áp dụng khoa học – kỹ thuật để cải cách các thủ tục hành chính trong quản lý LĐNN…

Năm 2015, cơ quan quản lý đã tiến hành thí điểm triển khai cấp lại giấy phép lao động qua mạng internet, phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông tiến tới cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người sử dụng lao động khi làm thủ tục cấp giấy phép lao động thông qua việc nộp hồ sơ và nhận kết quả giấy phép lao động tại nơi làm việc. Đến nay, về cơ bản đã hình thành cơ sở dữ liệu về người nước ngoài làm việc tại TP. Hồ Chí Minh; đồng thời có tác động đến việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.

Bốn là, phối hợp trong QLNN đối với LĐNN trên địa bàn.

Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND ngày 27/02/2015 của UBND TP. Hồ Chí Minh ban hành kèm theo Quy chế phối hợp quản lý LĐNN làm việc trong các DN, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu trên địa bàn đã quy định rõ những nội dung, nguyên tắc, trách nhiệm, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan QLNN từ cấp thành phố đến quận – huyện trong công tác quản lý LĐNN làm việc trong các DN, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu.

Việc triển khai quy chế phối hợp sẽ có tác động tích cực đến công tác QLNN của từng ngành, từng cấp; đặc biệt là sự phối hợp giữa Sở Lao động, Thương binh và Xã hội (Phòng Việc làm) và Công an thành phố (Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh) trong quản lý và hỗ trợ người nước ngoài tổ chức tuyên truyền, đối thoại DN liên quan đến các quy định về pháp luật lao động và pháp luật xuất nhập cảnh, cư trú cho hơn 1.000 lượt Việt kiều, 955 cơ quan, tổ chức, DN có sử dụng LĐNN.

Năm là, tổ chức kiểm tra, thanh tra các DN, tổ chức sử dụng người nước ngoài làm việc và xử lý vi phạm đối với các trường hợp người LĐNN vi phạm theo quy định của pháp luật.

Đây là khâu công tác thể hiện tính răn đe của pháp luật đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý lao động có yếu tố nước ngoài. Lực lượng quản lý đã trực tiếp kiểm tra hoặc phối hợp với ngành Công an, Y tế, Tư pháp… tổ chức các đợt kiểm tra thường xuyên hay đột xuất đối với người LĐNN trên địa bàn như: phối hợp với Sở Y tế – TP. Hồ Chí Minh để kiểm tra các cơ sở y tế, khám, chữa bệnh, bán thuốc có yếu tố nước ngoài; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Phòng Quản lý xuất, nhập cảnh tiến hành kiểm tra các điểm và phát hiện nhiều trường hợp không có giấy phép, điển hình nhất là “năm 2014, số điểm kiểm tra phối hợp là 13 điểm, gồm 12 công ty và 1 phòng khám, phát hiện 77 trường hợp không khai báo tạm trú, 5 trường hợp không giấy tờ tùy thân, 27 trường hợp không giấy phép lao động, 3 trường hợp hoạt động sai mục đích nhập cảnh”2.

Những mặt đạt được trong tổ chức QLNN đối với LĐNN trên địa bàn thành phố thời gian qua là rất khả quan và đáng ghi nhận với sự nỗ lực của các cơ quan quản lý tại địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế, QLNN đối với LĐNN tại TP. Hồ Chí Minh còn gặp nhiều khó khăn và bất cập, như: các cơ quan trung ương đã ban hành nhiều văn bản để quản lý, hướng dẫn nhưng vẫn chưa kịp thời, đồng bộ và có nhiều thay đổi trong khoảng thời gian ngắn, dẫn đến việc hướng dẫn cho các DN thực hiện cũng gặp nhiều khó khăn.

Công tác theo dõi và quản lý nguồn LĐNN còn bất cập do một số cá nhân, tổ chức có sử dụng người LĐNN chưa nắm bắt đầy đủ các quy định pháp luật về lao động của Việt Nam. Việc người sử dụng lao động tuyển dụng LĐNN vào làm việc ở một số vị trí công việc cho thấy tuy  không yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật cao nhưng do thành phần hồ sơ bảo đảm theo đúng quy định và người sử dụng lao động khẳng định sự cần thiết phải tuyển nên cơ quan quản lý lao động phải cấp giấy phép lao động. Việc phát hiện LĐNN không có giấy phép lao động chỉ tập trung chủ yếu qua công tác thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, lực lượng này còn hạn chế cả về chất lượng và số lượng.

Từ thực tiễn trên cho thấy, để nâng cao hiệu quả quản lý đối với LĐNN tại TP. Hồ Chí Minh, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường quản lý LĐNN trên cơ sở triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND, theo đó, các cơ quan QLNN từ cấp thành phố đến quận – huyện có sự phối hợp chặt chẽ, thông tin kịp thời trong công tác quản lý LĐNN.

Thứ hai, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền các quy định liên quan đến pháp luật lao động, trong đó có nội dung tuyển dụng, sử dụng và quản lý LĐNN. Các sở, ngành liên quan cần tăng cường tuyên truyền pháp luật; tổ chức hội nghị chuyên đề, đối thoại DN (tập trung các DN có sử dụng LĐNN). Thông qua hoạt động tuyên truyền pháp luật, phát huy vai trò, chức năng của cơ quan quản lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai các mặt công tác quản lý.

Thứ ba, vận hành có hiệu quả hệ thống thông tin quản lý LĐNN, tiếp tục xây dựng cơ sở dữ liệu lao động là người nước ngoài làm việc tại TP. Hồ Chí Minh. Áp dụng công nghệ – thông tin trong việc thực hiện cấp giấy phép lao động và quản lý LĐNN, từng bước rút ngắn thời gian xử lý và trả kết quả giải quyết hồ sơ theo thủ tục hành chính và quy trình ISO, ISO điện tử.

Thứ tư, nghiên cứu và tiếp tục đề xuất, kiến nghị với các cơ quan trung ương những nội dung còn vướng mắc trong quá trình thực hiện QLNN đối với LĐNN để hoàn thiện các quy định pháp luật về LĐNNr

Chú thích:
1. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo của Phòng Việc làm về tình hình lao động nước ngoài trên địa bàn thành phố (tính đến tháng 3/2016).
2. Công an TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo số 185/BC-PA72 ngày 24/11/2014 của Phòng Quản lý xuất, nhập cảnh về tổng kết công tác quản lý xuất nhập cảnh trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh năm 2014, phương hướng, nhiệm vụ năm 2015.

TS. Nguyễn Hồng Anh
Học viện Hành chính Quốc gia