Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội trong giai đoạn 2016 – 2020

(QLNN) – Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội, Đảng, Nhà nước ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng trong bối cảnh Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội là hết sức cần thiết.

 

Ảnh: http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn

Bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh.

Thực trạng công tác quản lý nhà nước về an sinh xã hội 

Xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, chính sách ASXH tập trung vào các nội dung:

(1) Tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động.

(2) Mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp.

(3) Hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro, như: mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo,… do ngân sách nhà nước bảo đảm.

(4) Tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin…

Mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là ASXH, phúc lợi xã hội nhằm bảo đảm toàn diện và tốt hơn quyền con người, góp phần phát triển bền vững đất nước. Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực ASXH; nguồn lực đầu tư được tăng cường và đa dạng hóa; phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, chăm lo cho con người, tạo động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền ASXH cơ bản cho người dân: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34); “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội” (Điều 59). Trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020” cũng đặt ra yêu cầu bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Phấn đấu đến năm 2020, cơ bản hình thành hệ thống ASXH bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm cho người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia BHXH; bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc biệt Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công.

Rà soát, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội. Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số… Khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân… Mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội…1.

Thể chế hóa quan điểm của Đảng và thực hiện Hiến pháp năm 2013, việc bảo đảm ASXH cho mọi người dân được thực hiện đồng bộ, thông qua tăng cường phát triển việc làm, mở rộng sự tham gia vào hệ thống BHXH, bảo hiểm y tế, cải cách chính sách trợ giúp xã hội và giảm nghèo bền vững. Hệ thống pháp luật cũng từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền ASXH cho mọi người dân.

Theo đó, các nội dung phát triển thị trường lao động, tăng cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham gia thị trường lao động (nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và người lao động); tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm; tiếp tục mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp) đã được chú trọng.

Đồng thời, mở rộng sự tham gia của người dân vào bảo hiểm y tế (hoàn thiện chế độ đóng, chế độ hưởng và điều kiện hưởng bảo hiểm y tế); mở rộng đối tượng được Nhà nước bảo hộ một phần và toàn phần để tham gia bảo hiểm y tế; mở rộng diện tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; hoàn thiện chế độ BHXH tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.

Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, mặc dù kinh tế nước ta trong giai đoạn 2011 – 2015 gặp nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đối với các chính sách xã hội; tăng thêm ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội; ưu tiên bố trí nguồn lực hướng tới ASXH toàn dân, bảo đảm quyền ASXH của người dân. Tổng kinh phí thực hiện ASXH tăng mạnh, từ 190,86 nghìn tỷ đồng (chiếm 5,88% GDP năm 2012) lên 259,83 nghìn tỷ đồng (6,31% GDP năm 2014). Năm 2015, tổng chi ASXH khoảng hơn 307.000 tỷ đồng (trên 6,6% GDP).

Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2011 – 2015) và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2016 – 2020) tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, khẳng định: “Chính sách an sinh xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, người có công và bảo trợ xã hội. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nhận thức của người dân về tự bảo đảm an sinh xã hội có tiến bộ, huy động nguồn lực xã hội cho chính sách xã hội tốt hơn. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ”2.

Cụ thể hơn, Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tại Đại hội Đảng lần thứ XII nêu rõ mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đối với người có công, giảm nghèo, trợ giúp xã hội, hỗ trợ nhà ở, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo. Năm 2015, cả nước có 52,9 triệu người có việc làm. Chuyển dịch cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế có chuyển biến tích cực, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp giảm, năm 2015 còn 44,3% (giảm 4,4% so với năm 2010).

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở mức thấp, năm 2015 là 2,31%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,29%.

Thực hiện tốt các chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng đã bổ sung chính sách, mở rộng đối tượng, từng bước nâng mức trợ cấp chính sách ưu đãi người có công phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước (mức chuẩn trợ cấp năm 2015 tăng 71,2% so với năm 2010).

Theo đó, tổng kinh phí thực hiện chính sách đối với người có công tăng từ 21.000 tỷ đồng năm 2011 lên trên 32.000 tỷ đồng năm 2015. Việc triển khai thực hiện chính sách bảo đảm đúng, đủ và kịp thời tới đối tượng được hưởng. Đời sống người có công không ngừng được cải thiện, đến cuối năm 2015, có 98,5% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình hộ dân cư nơi cư trú, tăng thêm 8,5% số hộ so với năm 2010.

Tăng cường trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thời gian qua, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không ngừng mở rộng, mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh tăng. Nguồn lực thực hiện chính sách trợ giúp xã hội được đa dạng hóa, kết hợp ngân sách trung ương, địa phương và của xã hội.

Năm 2015, cả nước có gần 2,7 triệu đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng tại cộng đồng (xấp xỉ 3% dân số); cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã hội được thành lập, đã tiếp nhận, nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41.450 đối tượng bảo trợ xã hội. Công tác cứu trợ đột xuất được thực hiện tốt và kịp thời, hầu hết những hộ gia đình và cá nhân chịu hậu quả thiên tai đều được hỗ trợ theo quy định của Nhà nước.

Phát triển và thực hiện tốt chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đến cuối năm 2015, cả nước có trên 12,07 triệu người tham gia BHXH, chiếm trên 23% lực lượng lao động (trong đó, tham gia BHXH bắt buộc trên 11,85 triệu người, tăng trên 2,25 triệu người so với cuối năm 2010; tham gia BHXH tự nguyện trên 223 nghìn người, tăng trên 148 nghìn người so với cuối năm 2010).

Cả nước hiện có gần 2,6 triệu người đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH. Có trên 9,9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 3,6 triệu người so với cuối năm 2010. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã phát huy tác dụng trong bối cảnh kinh tế khó khăn: từ năm 2011 – 2015, có trên 2,07 triệu lượt người được hưởng trợ cấp thất nghiệp; trên 1,7 triệu lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm; trên 122 nghìn lượt người được hỗ trợ học nghề…

Hướng tới giảm nghèo toàn diện và bền vững. Chính sách giảm nghèo tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tăng cường hỗ trợ người nghèo toàn diện; tập trung giảm nghèo cho đồng bào dân tộc, các vùng nghèo, huyện nghèo; cải cách, đổi mới thể chế, chính sách, nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình giảm nghèo; cải cách quản lý, thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững.

Đến cuối năm 2015, tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia còn dưới 4,5%. Các chương trình giảm nghèo không chỉ có tác dụng tích cực làm tăng khả năng thoát nghèo của hộ nghèo, giảm khoảng cách nghèo giữa các vùng, miền, nhóm dân tộc mà còn giúp đời sống của người dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế được cải thiện và nâng cao.

Như vậy, trong giai đoạn 2011 – 2015, cùng với sự cố gắng, nỗ lực, cả nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong thực hiện chính sách ASXH, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ASXH ở nước ta vẫn còn một số khó khăn cần khắc phục, như:

Nhận thức về vai trò của ASXH ở một bộ phận cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa đúng và chưa đầy đủ, còn coi ASXH là trách nhiệm riêng của Nhà nước, tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào trung ương còn nặng nề.

Năng lực xây dựng chính sách ASXH còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách ASXH chưa được quan tâm đúng mức. Quản lý nhà nước về ASXH còn bất cập do có nhiều chính sách được ban hành ở những giai đoạn khác nhau, áp dụng cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau nên còn chồng chéo, thiếu tính hệ thống, gây khó khăn cho việc quản lý chính sách ASXH và đối tượng thụ hưởng các chính sách đó.

Việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH ở các cấp, nhất là cấp cơ sở còn yếu. Nguồn lực cho thực hiện chính còn hạn hẹp, mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước còn thấp, phân tán, chưa đúng đối tượng; thiếu  chính sách khuyến khích người dân tự an sinh, người nghèo tự vươn lên thoát nghèo.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội trong giai đoạn 2016 – 2020

Giai đoạn 2016 – 2020, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng trong bối cảnh Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế – xã hội là hết sức cần thiết.

Theo đó, cần tập trung thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”. Quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục để từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt ASXH, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống cho người dân. Cụ thể:

Một là, tiếp tục bảo đảm mục tiêu, định hướng ASXH đến năm 2020. Theo đó, cơ bản hình thành hệ thống ASXH bao phủ toàn dân, bảo đảm cho người dân tiếp cận đến các chính sách việc làm, giảm nghèo, tham gia BHXH, hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng của nhân dân.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm ASXH. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ASXH, trong đó cần nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Cứu trợ xã hội, Luật Ưu đãi xã hội...; nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về ASXH cộng đồng nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ ASXH.

Phối hợp đồng bộ chính sách ASXH với các chính sách kinh tế – xã hội khác, như chính sách việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện các chương trình hỗ trợ tích cực, các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững…

Ba là, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục, trên cơ sở đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt ASXH, không ngừng nâng cao đời sống cho người dân. Tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về các chính sách ASXH.

Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo nên nguồn lực to lớn của toàn xã hội vì mục tiêu bảo đảm an sinh cho người dân, đồng thời có cơ chế phát huy sự tham gia của xã hội và người dân trong việc thực hiện. Tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách ASXH trên từng lĩnh vực để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội./.

Chú thích:
1,2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Sự thật, 2016, tr. 300; 237 – 238.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tham luận của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tại Đại hội Đảng lần thứ XII, ngày 23/01/2016.
ThS. Nguyễn Thị Hải Yến
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội