Kinh nghiệm của Nhật Bản trong xây dựng và triển khai chiến lược biển

(QLNN) – Thế kỷ XXI được coi là thế kỷ của đại dương, việc “Vươn ra biển” đã trở thành xu thế lớn, định hướng quan trọng cho tất cả quốc gia có biển và thậm chí cả các quốc gia không có biển.

Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam là quyết tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển.

Nhật Bản là quốc gia ven biển, vì thế nước này coi trọng việc xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về biển. Đối với Việt Nam, biển đảo không chỉ là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là môi trường sinh tồn phát triển đời đời bền vững của dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, trong đó có Nhật Bản về xây dựng và triển khai Chiến lược biển có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc triển khai Chiến lược biển ở nước ta hiện nay.

Chiến lược biển quốc gia của Nhật Bản

Là quốc gia ven biển, Nhật Bản coi trọng xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về biển (National Ocean Policy of Japan); chính sách biển của Nhật Bản hướng đến sự phát triển kinh tế – xã hội, đời sống của công dân, thúc đẩy sự hòa hợp giữa đại dương và con người, giữa phát triển tích cực, hòa bình với sử dụng biển một cách bền vững thông qua hợp tác quốc tế, phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 và các điều ước quốc tế khác có liên quan.

Để đạt được mục tiêu này, Đạo luật Biển của Nhật Bản đưa ra các quy định chung liên quan đến: (1) Xác định trách nhiệm của quốc gia, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và công dân liên quan đến vấn đề biển; (2) Bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển và sử dụng biển với bảo tồn môi trường biển;  (3) Bảo đảm an ninh, an toàn trên biển; (4) Thúc đẩy kiến thức khoa học về biển; (5) Phát triển các ngành công nghiệp biển; (6) Quản trị toàn diện biển; (7) Hợp tác quốc tế về biển; (8) Thành lập Văn phòng xúc tiến chính sách biển tổng hợp Phủ Nội các (Headquarters for Ocean Policy) và xây dựng kế hoạch cơ bản nhằm thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp liên quan đến đại dương một cách toàn diện và hệ thống.

Cơ quan chỉ đạo, điều phối thực hiện Đạo luật này là Văn phòng Xúc tiến chính sách biển tổng hợp của Phủ Nội các mà đứng đầu là Thủ tướng Nhật Bản, cấp phó là Chánh Văn phòng Nội các kiêm Bộ trưởng phụ trách chính sách biển; các thành viên là các bộ trưởng. Do đó, chính sách biển của Nhật Bản được thực hiện độc lập, không phụ thuộc vào bộ máy của các bộ, ngành.

Văn phòng Xúc tiến chính sách biển tổng hợp của Phủ Nội các gồm 3 bộ phận là: Hội đồng tư vấn (Hội nghị các chuyên gia) do Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm là những người có chuyên môn sâu, có nhiệm vụ hoạch định, xây dựng các kế hoạch cơ bản; Ban Thư ký chính sách biển Quốc gia thuộc Văn phòng Nội các; cơ quan đại diện các bộ khác với tư cách là các cơ quan triển khai thực hiện.

Cách tiếp cận mới của Nhật Bản nhằm trở thành quốc gia mạnh về biển trên các lĩnh vực an ninh, môi trường, công nghệ -nghiên cứu, hợp tác với các quốc gia xung quanh và phát triển nhân tài trong lĩnh vực hải dương. Theo đó, Nội các Nhật Bản đã cải tiến, điều chỉnh, triển khai tổng thể, đồng bộ các biện pháp cụ thể, trực tiếp dưới sự tham gia, phối hợp của nhiều bộ, ngành ở cấp trung ương.

Vai trò địa phương cũng được đề cao trong các lĩnh vực như đánh cá, bảo tồn, phát triển các đảo xa nhằm quản lý thống nhất các vùng đất và vùng biển phù hợp với đặc thù địa phương. Chính phủ hỗ trợ các vùng xây dựng kế hoạch và phương án bảo đảm an toàn các vùng ven biển.

Ban Chỉ đạo kế hoạch biển là cơ quan trực thuộc Chính phủ Nhật Bản do Thủ tướng đứng đầu, thành viên bao gồm các bộ, ngành có liên quan, phương thức quản lý về biển mang tính tổng hợp, kết hợp giữa chiều dọc và chiều ngang.

Đến nay, Nội các Chính phủ Nhật Bản đã ban hành 3 kế hoạch cơ bản thực hiện chính sách đại dương; kế hoạch cơ bản lần 1 (giai đoạn 2008 – 2013) có nội dung cụ thể hóa chính sách đại dương được ban hành năm 2007.

Kế hoạch cơ bản lần 1 đề cập các nội dung về thúc đẩy phát triển và khai thác nguồn tài nguyên biển; bảo vệ môi trường biển, thúc đẩy phát triển vùng đặc quyền kinh tế, bảo đảm an ninh hàng hải, an ninh biển; thúc đẩy nghiên cứu và khảo sát biển; nâng cao nhận thức của công chúng và xã hội về biển; thúc đẩy hợp tác và điều phối về biển. Quan điểm xuyên suốt của Kế hoạch cơ bản lần 1 là tạo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường, thúc đẩy nghiên cứu khoa học về biển, nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong quản lý, phát triển biển, đại dương.

Trên cơ sở kế thừa Kế hoạch cơ bản lần 1, bản Kế hoạch lần 2 của Nhật Bản (giai đoạn 2013 – 2018) nhấn mạnh nội dung về tăng cường khai thác tài nguyên dưới mặt biển và tăng cường khả năng giám sát xung quanh các vùng biển của Nhật Bản bằng cách tái cơ cấu trang bị quân sự như máy bay, tàu thủy cho lực lượng bảo vệ bờ biển và lực lượng phòng vệ Nhật Bản.

Kế hoạch cơ bản lần 3 (giai đoạn 2018 – 2023), thực hiện chính sách biển của Nhật Bản được thông qua ngày 15/5/2018, trong đó có những nhận định và chính sách mới với quốc sách: “Vượt qua thử thách để Nhật Bản trở thành quốc gia đại dương mới”.

Về các nguyên tắc, Kế hoạch lần 3 xác định: (1) Tích cực tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho Nhật Bản phát triển; (2) Phát huy tiềm năng của đại dương để duy trì quyền lực quốc gia; (3) Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế – xã hội bền vững và bảo vệ môi trường biển; (4) Nâng cao hiểu biết về biển, đại dương của người dân Nhật Bản.

Như vậy, trong bối cảnh tình hình an ninh hàng hải ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, để bảo vệ lợi ích hàng hải và duy trì ổn định, phát triển các vùng biển, kế hoạch hành động cơ bản lần 3 được Nội các Nhật Bản thông qua nhằm đẩy mạnh nỗ lực thực hiện an ninh hàng hải, phát triển toàn diện bằng cách tăng cường năng lực và sử dụng đại dương cho mục đích phát triển của các ngành kinh tế. An ninh, an toàn biển được xác định là nhiệm vụ hàng đầu với hai đặc trưng chính là:

– Tăng cường năng lực quản trị biển, trọng tâm là vấn đề an ninh phòng vệ trên biển, đồng thời chú trọng phát triển kinh tế.

– Tiếp tục thực hiện chính sách Bắc Cực với các biện pháp liên quan đến nghiên cứu và phát triển, hợp tác quốc tế và sử dụng bền vững tuyến Đông Bắc trong tuyến đường biển Bắc và vận dụng các sáng kiến của nước ngoài nhằm phát huy thế mạnh của Nhật Bản trong lĩnh vực khảo sát, nghiên cứu và phát triển, đồng thời thiết lập các trung tâm hợp tác quốc tế ở Bắc Cực.

Trong giai đoạn này, Chính phủ Nhật Bản chú trọng an ninh trên biển, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lợi tài nguyên biển để phát triển các ngành kinh tế biển liên quan. Duy trì và bảo đảm môi trường an ninh biển, quan tâm phát triển khoa học – công nghệ để nắm bắt thông tin điều tra, nghiên cứu về tài nguyên, môi trường biển, hạn chế ô nhiễm và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường biển; tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực biển.

Chính phủ chú trọng nâng cao nhận thức của công chúng trong xã hội về biển, do vậy, Chiến lược biển quốc gia được phổ biến công khai toàn dân, mặt khác, Nhật Bản chủ trương thúc đẩy hợp tác quốc tế về vai trò của biển và tăng cường điều phối quốc tế.

Để triển khai hiệu quả Chiến lược biển, Chính phủ Nhật Bản chú trọng thiết lập bộ máy để thực thi chính sách biển; quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan chức năng, bộ, ngành, địa phương có liên quan.

Dư luận quốc tế đánh giá Chiến lược biển quốc gia của Nhật Bản là một văn bản hoàn chỉnh, có sự cân bằng giữa sự phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường biển. Chiến lược biển của Nhật Bản quan tâm thúc đẩy nghiên cứu khoa học về biển, nhất là nguồn tài nguyên biển, trao quyền cho Chính phủ thực hiện Chiến lược biển.

Mặc dù có tranh chấp trên biển nhưng trong Chiến lược đề cập những nội dung về tranh chấp trên biển, phần về quốc phòng – an ninh chỉ nói chung đến việc tuần tra, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự trên biển, phát hiện các tàu thuyền lạ và tàu thu thập thông tin tình báo.

Trong thực tiễn triển khai Chiến lược biển quốc gia, Nhật Bản đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là trong việc phát triển kinh tế biển, có chính sách phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ven biển trong kế hoạch phát triển lãnh thổ nói chung.

Ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, để đạt mục tiêu phát triển nhanh và hiệu quả, Nhật Bản đã lựa chọn 4 khu vực lãnh thổ là Tokyo, Osaka, Nagoya và Yokohama để tập trung nguồn lực phát triển, hình thành nên vành đai công nghiệp Thái Bình Dương. Vành đai này chỉ chiếm 13% diện tích lãnh thổ toàn quốc nhưng tập trung tới 63% dân số cả nước Nhật. Đây là một trong bốn vành đai công nghiệp lớn trên thế giới, đặt nền móng cho sự phát triển của Nhật Bản trong các giai đoạn sau.

Như vậy, việc triển khai Chiến lược biển quốc gia của Nhật Bản nhằm tận dụng các nguồn lực của biển, khai thác và sử dụng hiệu quả biển đi liền với phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ ven biển, đảo nhằm duy trì nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, góp phần đưa Nhật Bản trở thành quốc gia có nền kinh tế quy mô đứng thứ 3 trên thế giới.

Một số vấn đề rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm Nhật Bản về Chiến lược biển

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp và tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược biển một cách thiết thực, đạt được những kết quả quan trọng; kinh tế biển, ven biển đã có bước phát triển khá. Tuy nhiên, trong điều kiện mới hiện nay, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn thách thức, nhất là những hạn chế về trình độ phát triển khoa học – công nghệ biển, nguồn nhân lực biển, năng lực quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương và các lực lượng trên biển. Tài nguyên biển đang bị khai thác có nguy cơ cạn kiệt, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng…

Để thực hiện mục tiêu tổng quát đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển, đòi hỏi cần tiếp tục phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, khắc phục hạn chế, yếu kém trong từng lĩnh vực và cần có giải pháp tổng thể, kịp thời trong thời gian tới.

Qua tổng kết việc thực hiện Chiến lược biển trong hơn 10 năm qua, cần bổ sung nhận thức, quan điểm, định hướng mới cho Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam cần bao quát toàn diện, định hướng những vấn đề cơ bản với tầm nhìn dài hạn, được phổ biến công khai để toàn Đảng, toàn dân có điều kiện tiếp cận, quán triệt và thực hiện.

Khắc phục tình trạng chồng chéo trong quản lý nhà nước về biển. Hiện nay, với đầu mối là Tổng cục Biển và hải đảo thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, với bộ máy quản lý như vậy là chưa đủ mạnh, chưa đủ thẩm quyền giải quyết các vấn đề nảy sinh trong bối cảnh mới trong nước và quốc tế. Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, chúng ta có thể tham khảo, nên thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước để tổ chức, triển khai Chiến lược biển do Thủ tướng Chính phủ hoặc Phó Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, thành viên là đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan.

Để Chiến lược biển đi vào cuộc sống, từ thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm Nhật Bản, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp quan trọng đột phá như sau:

Một là, tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục về biển đảo của Tổ quốc để nâng cao nhận thức, thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân.

Hai là, hoàn thiện và triển khai đồng bộ, có chất lượng, hiệu quả các định hướng chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển, đảo; duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển đất nước trong bối cảnh mới.

Ba là, tập trung đầu tư phát triển khoa học – công nghệ về biển để lĩnh vực này trở thành động lực của sự phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển; đồng thời, triển khai quy hoạch, phát triển nguồn nhân lực biển để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội vùng biển và ven biển.

Bốn là, hoàn thiện thể chế, coi trọng và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực biển đảo, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, chú trọng công tác nghiên cứu dự báo trong triển khai thực hiện Chiến lược biển.

Tài liệu tham khảo:
1. Chiến lược biển của Nhật Bản. Bản tiếng Nhật và tiếng Anh, Tokyo 2018.
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Tháng 02/2007.
PGS.TSKH.Trần Nguyễn Tuyên
Hội đồng Lý luận Trung ương