Thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều ở tỉnh Vĩnh Long

(QLNN) – Vĩnh Long là tỉnh được đánh giá thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo trong thời gian qua và cũng là địa phương có quan điểm thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều, bền vững hết sức đúng đắn đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Tạp chí Quản lý nhà nước có cuộc phỏng vấn ông Lữ Quang Ngời – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về nội dung này. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Các chính sách hỗ trợ vốn vay, đào tạo nghề góp phần thoát nghèo bền vững cho những hộ dân.

PV: Xin ông cho biết quan điểm thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều ở tỉnh Vĩnh Long thời gian qua?

Ông Lữ Quang Ngời: Có thể nói, đói nghèo là một trong những rào cản lớn làm giảm khả năng phát triển của con người, cộng đồng cũng như mỗi quốc gia, dân tộc. Người nghèo thường không có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội như việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thông tin… và điều đó khiến cho họ ít có cơ hội thoát nghèo. Do vậy, việc bảo đảm mức sống tối thiểu, mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực cũng như khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là phương thức tốt nhất để giảm nghèo bền vững.

Chính vì vậy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa X khi thống nhất ban hành Nghị quyết về giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 – 2020, đã nêu rất rõ: “Bảo đảm đến cuối năm 2020 thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng lên 2 lần so với cuối năm 2015; cơ bản đáp ứng khả năng tiếp cận của hộ nghèo đối với các dịch vụ y tế, giáo dục, tiếp cận thông tin, nhà ở, nước sạch, vệ sinh; giải quyết một cách cơ bản về kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở các huyện nghèo, xã, thôn đặc biệt khó khăn theo tiêu chí nông thôn mới”. Cùng với việc hỗ trợ cho người nghèo nâng cao thu nhập cải thiện đời sống, việc cần làm sắp đến của chính quyền tỉnh là hỗ trợ để họ có thể tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản.

Ý thức học tập để thoát nghèo được nâng cao trong đồng bào Khmer (Ảnh: học sinh Trường PT Dân tộc Nội trú tỉnh).

PV: Xin ông cho biết quyết tâm giảm nghèo của chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Long?

Ông Lữ Quang Ngời: Giai đoạn 2016 – 2020, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh luôn xác định xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Các sở, ban, ngành thuộc thành viên Ban chỉ đạo đã phối hợp chặt chẽ trong việc chỉ đạo, triển khai thực hiện.

Các địa phương đã cụ thể hóa chương trình, kế hoạch giảm nghèo, cùng với việc đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, các chương trình mục tiêu giảm nghèo đã được triển khai đồng bộ với nội dung, giải pháp phù hợp và đạt được kết quả cao, đáp ứng được tình hình thực tế, giải quyết được nhu cầu bức xúc của người nghèo, đồng thời huy động xã hội hóa các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp,… góp phần hỗ trợ người nghèo vượt khó khăn vươn lên thoát nghèo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ giảm nghèo ở các cấp được chú trọng; những tồn tại, khó khăn trong quá trình thực hiện chương trình từng bước được khắc phục, đã huy động được nhiều nguồn lực tập trung ưu tiên cho hộ nghèo và cận nghèo.

Mục tiêu giảm nghèo đã trở thành nhiệm vụ, chỉ tiêu ưu tiên trong quá trình chỉ đạo điều hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và cả hệ thống chính trị các cấp. Tổ chức triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh, góp phần thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước, sự đồng thuận và tham gia ủng hộ tích cực của các đối tượng người nghèo nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng và nhân dân trước những khó khăn của địa phương.

Các chính sách hỗ trợ người nghèo ngày càng mở rộng. Một số nhu cầu thiết yếu của người nghèo cơ bản được đáp ứng kịp thời như: khám, chữa bệnh, nhà ở, giáo dục, hỗ trợ tiền điện, trợ cấp khó khăn…Công tác tư vấn dạy nghề, giới thiệu việc làm và thông tin về thị trường lao động được quan tâm thực hiện, công tác tuyên truyền đến người lao động, người nghèo theo nhiều kênh khác nhau, do đó đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức, tác động tích cực đến người nghèo nên họ có nhiều cơ hội tìm việc làm,  tăng thu nhập, thoát nghèo.

Từ năm 2016 đến nay, thực hiện hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội nhân dịp Tết Nguyên đán hằng năm; tổ chức thăm, tặng quà cho 196.194 lượt đối tượng, với kinh phí 59,349 tỷ đồng. Hỗ trợ 7.007 căn nhà cho hộ nghèo gồm nhà ở theo Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg ngày 10/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ; nhà hộ nghèo đồng bào dân tộc Khmer và các ban, ngành, đoàn thể đã vận động xây dựng nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo với tổng số tiền hơn 255,798 tỷ đồng. Hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đạt tỷ lệ 100%, với tổng kinh phí là 179,787 tỷ đồng; hỗ trợ cho người nghèo điều trị bệnh như, hỗ trợ 12.651 lượt người nghèo, chạy thận nhân tạo, bệnh ung thư với kinh phí hơn 3.000 tỷ đồng; triển khai thực hiện tốt các Dự án phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo tại 7 huyện, thị xã như: nuôi bò cái sinh sản, nuôi dê, nuôi gà bằng đệm lót sinh học, trồng nấm bào ngư xám, nuôi bồ câu pháp,…

Ngoài ra, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ khác cho hộ nghèo, hộ cận nghèo như: miễn giảm học phí, vay vốn, hỗ trợ tiền điện, trợ giúp pháp lý, tiếp cận thông tin,… Tổng giá trị huy động, vận động hỗ trợ cho người nghèo, cận nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn được 1.140 tỷ đồng, trong đó Quỹ vì người nghèo: 131 tỷ đồng, chương trình an sinh xã hội: 1.009 tỷ đồng. Thực hiện tốt công tác truyền thông, thông tin về giảm nghèo, các chính sách bảo trợ xã hội và tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo, bảo trợ xã hội các cấp.

Đầu năm 2016, toàn tỉnh có 17.405 hộ nghèo (theo chuẩn nghèo mới), chiếm tỷ lệ 6,26%, đến cuối năm 2019 giảm còn 5.160 hộ, chiếm tỷ lệ 1,77% (bình quân giảm 1,12%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra là 1%); hộ cận nghèo hiện nay là 11.770 hộ, chiếm tỷ lệ 4,03%. Trong đó, hộ nghèo dân tộc thiểu số: từ 2.095 hộ (đầu năm 2016) chiếm tỷ lệ 29,48%, đến cuối năm 2019 giảm còn 684 hộ, chiếm tỷ lệ 7,88%; bình quân giảm 5,4%.

Sản xuất sạch, sản xuất theo chuỗi được nhiều HTX chú trọng

PV: Có những khó khăn, cản trở nào làm chậm lại quá trình thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững không thưa ông?

Ông Lữ Quang Ngời: Nhìn chung, đội ngũ cán bộ thực hiện chương trình này ở một số nơi còn hạn chế, chưa tham mưu tích cực cho cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc triển khai thực hiện chương trình; phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các cấp chưa thường xuyên, nhất là thực hiện lồng ghép chương trình giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững với các chương trình, mục tiêu khác; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình còn hạn chế.

Tỷ lệ hộ nghèo hằng năm giảm đáng kể, tuy nhiên, số hộ phát sinh mới vẫn còn cao, hộ thoát nghèo chưa bền vững, chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo theo từng giai đoạn còn thấp, không phù hợp với mức sống của người dân nên dễ rơi vào tình trạng tái nghèo.

Công tác theo dõi, quản lý hộ nghèo được quan tâm thực hiện nhưng chưa chặt chẽ, thiếu cập nhật về tình hình đời sống hộ nghèo. Trình độ, năng lực cán bộ làm công tác giảm nghèo ở một số xã, phường chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, còn thiếu chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện công tác giảm nghèo.

Một bộ phận gia đình nghèo nông nghiệp có lao động nhưng ý thức học nghề và chuyển đổi ngành nghề còn hạn chế, ý thức tham gia xuất khẩu lao động chưa tốt.

Vẫn còn tình trạng một bộ phận người nghèo chây lười lao động, không chí thú làm ăn, không muốn thoát nghèo. Trong công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, một số nơi vẫn còn vị nể, ngại va chạm nên một số hộ nghèo được công nhận không đúng thực chất.

PV: Xin ông cho biết cụ thể hơn về quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều của tỉnh?

Ông Lữ Quang Ngời: Đầu tiên phải giải quyết cơ bản tình trạng hộ đồng bào dân tộc thiểu số không có đất ở và giải quyết đất sản xuất hoặc chuyển đổi nghề cho ít nhất 80% hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đang thiếu đất sản xuất; kết hợp đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo chưa được hỗ trợ đất sản xuất.

Quan tâm đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ để đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm của các ngành sản xuất, chế biến nông, lâm sản cho hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo; chú trọng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi là đặc sản bản địa, có giá trị hàng hóa và có hiệu quả cao. Đồng thời, phát triển có chọn lọc những tri thức bản địa nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ cập giáo dục và tỷ lệ đào tạo nghề khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số; phân luồng, đào tạo nghề hợp lý, hiệu quả; duy trì các chính sách hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; nâng cao tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ở địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn; phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú với quy mô phù hợp; đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo cử tuyển gắn với sử dụng.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hỗ trợ về y tế, thực hiện mục tiêu bảo đảm ít nhất 90% hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế; 70% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, trên 90% trạm y tế cấp xã có đủ điều kiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế; điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và chính sách bảo hiểm y tế để bảo đảm tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, người cận nghèo.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước; hoàn thiện cơ chế điều hành, phân công đầu mối chịu trách nhiệm chính, phân cấp đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể cho địa phương; cải cách thủ tục hành chính và phương thức để người dân, cộng đồng thuận lợi hơn khi tham gia và tiếp cận chính sách giảm nghèo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự vươn lên thoát nghèo.

PV: Trên cơ sở mục tiêu chung, để thực hiện giảm nghèo bền vững , tỉnh Vĩnh Long cần tập trung thực hiện các hoạt động cụ thể nào, thưa ông?

Ông Lữ Quang Ngời: Có 4 nhóm hoạt động cần thực hiện cụ thể như sau:

Một là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng tâm, hiệp lực của toàn xã hội trong triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 – 2025; tiếp tục tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Hai là, tăng cường và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cấp xã, huyện, đặc biệt là các xã khó khăn, xã đặc biệt khó khăn.

Ba là, rà soát, bổ sung các chính sách giảm nghèo đặc thù của tỉnh. Gắn kết kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững với các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng kỹ thuật thiết yếu tại các ấp, xã đặc biệt khó khăn; phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tại các xã đặc biệt khó khăn, nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.

Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, ưu tiên người nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thông qua hệ thống chính sách giảm nghèo hiện hành và Chương trình mục tiêu quốc gia, giảm nghèo bền vững nhằm cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều; từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong việc hưởng thụ dịch vụ công và phúc lợi xã hội, trong thu nhập và đời sống giữa thành thị và nông thôn.

Đẩy mạnh hoạt động tín dụng ưu đãi và tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác gắn với chính sách khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao khoa học – kỹ thuật và nhân rộng mô hình giảm nghèo một cách có hiệu quả.

Khuyến khích và mở rộng hoạt động tạo việc làm công cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và người dân trên địa bàn thông qua các dự án xây dựng hạ tầng, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn. Khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo, hướng dẫn người nghèo tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng để thoát nghèo, vươn lên khá giả.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra và giám sát, đánh giá và định kỳ báo cáo sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình giảm nghèo.

PV: Xin ông cho biết vấn đề lồng ghép mục tiêu và lựa chọn ưu tiên trong chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều của tỉnh?

Ông Lữ Quang Ngời: Giai đoạn tới, tỉnh sẽ tăng nguồn lực đầu tư trên cơ sở cân đối nguồn lực trung hạn của Nhà nước cho các chính sách, chương trình giảm nghèo; lựa chọn chính sách để ưu tiên phân bổ, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực; bảo đảm lồng ghép chính sách và nguồn lực có hiệu quả. Thúc đẩy việc kết nối phát triển kinh tế – xã hội giữa vùng khó khăn với vùng phát triển.

Thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ thị trường phù hợp với đặc điểm vùng, phát triển mạnh các đặc sản bản địa có giá trị và hiệu quả sử dụng cao nhằm thu hút doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, phát triển sản xuất – kinh doanh và kết cấu hạ tầng, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ, nâng cao khả năng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường tại các địa bàn nghèo, địa bàn khó khăn, địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Các chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với đối tượng, địa bàn và thời hạn thụ hưởng nhằm tăng cơ hội tiếp cận chính sách và khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo.

Duy trì, bổ sung một số chính sách hỗ trợ phù hợp đối với hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo cùng với việc tăng nguồn vốn tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; điều chỉnh đối tượng, mức vay, lãi suất, thời hạn cho vay phù hợp gắn với chính sách khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, xây dựng, nhân rộng mô hình thoát nghèo gắn kết với cộng đồng dân cư trên địa bàn.

PV: Tỉnh có thực hiện lồng ghép các chính sách giảm nghèo theo chuẩn đa chiều vào một chương trình cụ thể nào đó không, thưa ông?

Ông Lữ Quang Ngời: Chúng tôi có rà soát, đánh giá hệ thống chính sách giảm nghèo, trên cơ sở đó lồng ghép các chính sách, loại bỏ các chính sách chồng chéo, không hiệu quả, nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với tiêu chí cụ thể như đối tượng, địa bàn, thời gian thụ hưởng; bảo đảm tính hiệu quả của chính sách và tính khả thi trong bố trí nguồn lực thực hiện; tích hợp một số chính sách hiện đang trợ cấp bằng tiền mặt thành một gói trợ cấp có điều kiện để giảm đầu mối cơ quan quản lý, chi trả và tạo điều kiện thuận lợi, giảm thời gian, thủ tục, chi phí đi lại… cho đối tượng thụ hưởng khi nhận trợ cấp. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích, huy động nguồn lực từ người dân và cộng đồng xã hội cho công tác giảm nghèo. Đổi mới hình thức hỗ trợ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, chuyển dần từ hình thức bao cấp toàn bộ sang đồng chia sẻ về kinh phí.

Bảo đảm bố trí nguồn lực cho chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2021 – 2025; tiếp tục ưu tiên các nguồn lực để thực hiện các chính sách giảm nghèo; tập trung ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA), vốn tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển hạ tầng, kinh tế – xã hội các vùng khó khăn; ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên để thực hiện các chính sách hỗ trợ các đối tượng nghèo ổn định đời sống, phát triển sản xuất vươn lên thoát nghèo. Ưu tiên nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, đầu tư hạ tầng kỹ thuật và phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số.

Song song với việc tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ, gia tăng mức độ che phủ thì yêu cầu xuyên suốt là phải nâng cao chất lượng các dịch vụ cơ bản, trong đó có y tế, giáo dục. Cần bảo đảm tính khách quan trong việc thu thập, xử lý tính toán, tổng hợp và báo cáo các tiêu chí nghèo, trong đó điểm mấu chốt là xác định đúng các trọng số cho phù hợp, tức là xác định rõ nhóm tiêu chí để đánh giá cho phù hợp. Hệ thống giám sát đánh giá cần được triển khai, vận hành gắn liền với cách tiếp cận nghèo đa chiều, trong đó sự tham gia, đồng thuận và tiếng nói của người dân là rất quan trọng. Trong quá trình đó, vai trò của khoa học xã hội hết sức cần thiết nhằm cung cấp những phương pháp và bằng chứng khoa học nhằm đánh giá thực trạng và hiệu quả của chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016 – 2020.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông! Chúc nhân dân, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Vĩnh Long đón năm mới với những thành công và thắng lợi mới!

Thúy Vân thực hiện