Tăng cường minh bạch, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng

(QLNN) – Kê khai tài sản, thu nhập cũng như công khai, minh bạch tài sản của cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước được xác định là một trong những biện pháp quan trọng góp phần phòng, chống tham nhũng. Pháp luật đã có những quy định rõ về kê khai và công khai tài sản nhằm giúp cơ quan chức năng phát hiện, kiểm tra dấu hiệu vi phạm, tiêu cực. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này chưa đạt hiệu quả như mong muốn, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới về nội dung, hình thức và có cơ chế kiểm soát kê khai hiệu quả hơn.

Ảnh minh hoạ: http://ogpvietnam.org

1. Kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) được hiểu là việc ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các loại tài sản, thu nhập (TSTN), biến động TSTN của CBCCVC, là một khâu trong kiểm soát TSTN mà Nhà nước sử dụng nhằm phát hiện, ngăn chặn việc CBCCVC thực hiện hành vi tham nhũng. Vì vậy, yêu cầu kê khai TSTN của CBCCVC phải bảo đảm sự rõ ràng, rành mạch các thông tin về TSTN và bảo đảm sự trung thực trong kê khai cũng như trách nhiệm giải trình của người kê khai.

Ngay từ năm 2005, Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) đã quy định về những người có nghĩa vụ phải thực hiện hằng năm việc kê khai tài sản và mọi biến động về tài sản thuộc sở hữu của mình, của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên (Điều 44). Thực hiện Luật PCTN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 quy định chi tiết về minh bạch TSTN, trong đó nêu rõ mục đích của việc làm này là để cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền biết được TSTN của người có nghĩa vụ kê khai nhằm minh bạch TSTN của người đó; phục vụ cho công tác quản lý CBCCVC, góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng. Theo đó, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 hướng dẫn thi hành Nghị định 78/2013/NĐ-CP.

Ngày 03/01/2014, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản. Tiếp đó, ngày 23/5/2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 85-QĐ/TW về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.

Quy định này cho thấy, trong cuộc đấu tranh phức tạp, cam go chống tham nhũng không có “vùng cấm”, bất kể ai vi phạm đều bị xử lý nghiêm minh, dù ở cương vị nào. Đây cũng là một trong những giải pháp nhằm thực hiện quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước.

2. Thực hiện các quy định của pháp luật về kê khai TSTN và công khai, minh bạch TSTN, những năm qua, việc kê khai tài sản của CBCCVC đã dần đi vào nề nếp. Về cơ bản, việc kê khai TSTN, trả lương qua tài khoản, nộp lại quà tặng… được triển khai rộng rãi và có tác động nhất định, tạo sự chuyển biến về ý thức, hành động của đội ngũ CBCCVC.

CBCCVC đã tự giác kê khai tài sản, thể hiện trách nhiệm của mình trong việc thực hiện minh bạch TSTN, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện việc quản lý, đánh giá cán bộ và có cơ sở để xác minh về TSTN khi cần thiết. Các văn bản quy phạm pháp luật về kê khai TSTN được rà soát, điều chỉnh, bổ sung đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công tác PCTN. Đặc biệt, với quy định quản lý, sử dụng bản kê khai, bước đầu đã tạo ra cơ chế kiểm soát tài sản của CBCCVC.

Theo số liệu thống kê, năm 2008 có 313.317 người kê khai lần đầu; 17 bộ, ngành, cơ quan trung ương và 4 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoàn thành việc kê khai đúng thời hạn; đã xác minh 606 trường hợp kê khai. Năm 2009, có 388.404 người kê khai lần đầu và 238.455 người kê khai bổ sung; 32 bộ, ngành, cơ quan trung ương và 27 địa phương hoàn thành việc kê khai đúng thời hạn; đã xác minh 788 trường hợp kê khai. Năm 2010, có 105.070 người kê khai lần đầu và 514.524 người kê khai bổ sung; 32 bộ, ngành, cơ quan trung ương và 24 địa phương hoàn thành việc kê khai đúng thời hạn. Năm 2011, có 110.289 người kê khai lần đầu và 443.079 người kê khai bổ sung; 15 bộ, ngành, cơ quan trung ương và 15 địa phương hoàn thành việc kê khai đúng thời hạn1.

Qua tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN năm 2005 cho thấy, thực trạng kê khai tài sản nói riêng và minh bạch TSTN nói chung đã đạt được những thành tựu nhất định: tỷ lệ kê khai TSTN đúng thời hạn đạt 99,5%, công khai đạt tỷ lệ 98,3%. Bước đầu hình thành cơ sở tài liệu phục vụ xác minh về TSTN cá nhân của người có chức vụ, quyền hạn, “tính đến năm 2016, có khoảng 5 triệu bản kê khai đang được quản lý tại các cơ quan, đơn vị, trong đó 2,2 triệu bản đã được công khai”2. Năm 2016, số người đã kê khai TSTN là 1.113.422 người; đạt tỷ lệ 99,8% so với số người phải kê khai; số bản kê khai đã công khai: 1.111.818 bản, đạt tỷ lệ 99,8% so với số bản đã kê khai. Năm 2017, có trên 1,1 triệu người kê khai TSTN, đạt tỷ lệ 99,8% so với số người phải kê khai3. Năm 2018, số người đã kê khai TSTN là 1,134 người, đạt tỷ lệ 99,8%; số bản kê khai đã công khai là hơn 1,13 triệu bản, đạt tỷ lệ 99,8% (còn 1.679 bản kê khai chưa được công khai dưới cả 2 hình thức (công khai ở cuộc họp và theo hình thức niêm yết), chiếm 0,2%)4.

3. Tuy nhiên, thực tế triển khai thực hiện các quy định về kê khai và công khai, minh bạch TSTN của CBCCVC cho thấy, việc kê khai tài sản, thu nhập còn mang tính hình thức. Qua tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN của Chính phủ, các cơ quan chức năng đã tiến hành xác minh 4.859 trường hợp kê khai tài sản và chỉ phát hiện, xử lý kỷ luật 17 người kê khai không trung thực5. Năm 2017, có 78 người được xác minh TSTN, qua đó, phát hiện và xử lý 6 trường hợp vi phạm. Năm 2018, trong số hơn 1 triệu người thuộc diện phải kê khai, có 44 người được xác minh TSTN, phát hiện 6 trường hợp vi phạm6.

Trong khi đó, theo thống kê, chỉ sau hơn hai năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 490 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái quy định. Ðáng chú ý, tiền và tài sản được kê biên, thu giữ từ một số vụ án tham nhũng, án kinh tế đặc biệt nghiêm trọng rất lớn.

Ví dụ,  vụ án Giang Kim Ðạt, cơ quan chức năng đã thu giữ, kê biên, phong tỏa tài khoản hơn 300 tỷ đồng; vụ Hứa Thị Phấn kê biên hơn 10 nghìn tỷ đồng; vụ Ngân hàng Ðông Á kê biên hơn 2 nghìn tỷ đồng; vụ Phạm Công Danh (giai đoạn I) thu hồi hơn 6 nghìn tỷ đồng; vụ Ðinh La Thăng thu hồi, khắc phục hơn 20 tỷ đồng; vụ Trịnh Xuân Thanh thu hồi hơn 45 tỷ đồng và vụ AVG thu hồi hơn 8.500 tỷ đồng…7.

Hay đối với trường hợp “Biệt phủ Yên Bái” năm 2017, Thanh tra Chính phủ cũng có kết luận về việc kê khai tài sản không trung thực của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái. Từ những vụ án đã đưa ra xét xử hay các vi phạm được Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận, có thể đặt ra câu hỏi, nếu những cán bộ ấy không bị tố giác, phanh phui vì tham nhũng thì liệu họ có bị phát hiện là đã kê khai tài sản không trung thực hay không?

Thực tế nêu trên đặt ra vấn đề, tại sao việc kê khai và công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của CBCCVC đã được thực hiện đúng quy định, nhưng kết quả chưa phản ánh đúng thực tế, chưa góp phần hiệu quả vào việc PCTN. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, như Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN cũng đã chỉ ra: “các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa đủ mạnh để kiểm soát tài sản, thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục giải trình, xác minh tài sản, thu nhập; chưa có quy định về việc xử lý tài sản, thu nhập không được giải trình một cách hợp lý và thời hạn người kê khai tài sản, thu nhập có nghĩa vụ giải trình về tài sản, thu nhập…”8. Cụ thể:

Thứ nhất, ý thức, trách nhiệm chấp hành về kê khai TSTN trong một bộ phận CBCCVC chưa cao. Do nhiều lý do nên không ít người đã tìm kẽ hở của pháp luật cũng như cách thức tổ chức việc kê khai TSTN để kê khai đối phó hoặc không trung thực.

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị tổ chức tiến hành kê khai nhưng thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả việc kê khai, do nhiều tài sản của CBCCVC khó kiểm tra, xác minh như tiền, vàng, ngoại tệ để trong nhà hoặc mở tài khoản ở nước ngoài nhưng không khai báo. Công tác theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quy định về minh bạch TSTN nói chung và kê khai TSTN nói riêng của các cấp ủy đảng, người đứng đầu đơn vị chưa quyết liệt, chưa thường xuyên, kịp thời, dẫn đến việc tổng kết rút kinh nghiệm nâng cao hiệu quả, công tác chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện chưa đạt được mục đích đặt ra.

Thứ ba, các biện pháp đấu tranh PCTN thông qua kê khai TSTN chưa đạt kết quả, thiếu khả thi. Một số CBCCVC tẩu tán tài sản bằng cách nhờ người thân đứng tên quyền sở hữu nên khó phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, chỉ khi có dư luận, qua báo chí kiến nghị, phản ánh thì cơ quan công quyền mới tiến hành xác minh làm rõ nguồn gốc tài sản của đối tượng cần kê khai.

Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm soát các giao dịch về tài sản, kiểm soát thu nhập còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, hướng dẫn các quy định pháp luật về vấn đề kê khai TSTN còn bị xem nhẹ.

4. Ðể tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác kê khai và công khai, minh bạch TSTN của CBCCVC, Luật PCTN đã được nghiên cứu, sửa đổi và được Quốc hội (khóa XIV) thông qua ngày 20/11/2018 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019), trong đó chú trọng những nội dung về kê khai tài sản, các phương án xử lý tài sản kê khai; kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị – đây là một trong những nội dung mới và thay đổi căn bản so với Luật hiện hành. Theo đó, Luật PCTN năm 2018 đã quy định rõ cơ quan kiểm soát TSTN; kê khai TSTN, xác minh tài sản, thu nhập; cơ sở dữ liệu về TSTN.

Cụ thể, quy định cơ quan kiểm soát TSTN theo hướng tăng cường một bước tính tập trung và phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, bảo đảm tính khả thi; quy định mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai đến tất cả cán bộ, công chức và một số nhóm viên chức giữ chức vụ, chức danh quản lý để từng bước quản lý chặt chẽ về dữ liệu TSTN, trên cơ sở đó, theo dõi, xác minh phục vụ cho công tác PCTN.

Đồng thời, đổi mới căn bản phương thức kê khai để giảm bớt số đối tượng phải kê khai hằng năm và khắc phục tính hình thức trong thực hiện. Luật cũng bổ sung căn cứ xác minh theo phương thức kế hoạch xác minh TSTN hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai TSTN được lựa chọn ngẫu nhiên; quy định cụ thể về thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh TSTN; nội dung xác minh TSTN không trung thực, giải trình nguồn gốc TSTN tăng thêm không trung thực…

4. Trong thời gian tới, để việc kê khai và công khai, minh bạch TSTN của CBCCVC đạt hiệu quả cao, thực sự góp phần PCTN, bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc các quy định mới của Luật PCTN năm 2018, cần chú trọng các nội dung sau:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về minh bạch TSTN cho CBCCVC, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm giám sát của toàn xã hội về chủ trương PCTN. Tăng cường, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, song song với việc phát huy tính tiên phong gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác minh bạch TSTN. Có chế tài ràng buộc trách nhiệm đối với người đứng đầu: nếu việc kê khai TSTN mang tính hình thức, đối phó, người đứng đầu phải chịu kỷ luật. Tăng cường hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương trong việc kê khai TSTN và báo cáo kết quả kê khai.

Hai là, tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, cần sự thống nhất trong nhận thức và sự chấp hành nghiêm túc của tất cả CBCCVC. Khi được kiểm tra, giám sát, CBCCVC có nghĩa vụ kê khai tài sản phải báo cáo đầy đủ, trung thực, kịp thời việc kê khai tài sản; giải trình, cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan…

Ba là, phát huy vai trò của báo chí – truyền thông trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội, tài sản, thu nhập của CBCCVC. Hiện nay, báo chí – truyền thông được coi là bộ phận tiên phong trong công tác giám sát và phản biện xã hội nói chung và giám sát TSTN của CBCCVC nói riêng. Về nguyên tắc, hoạt động giám sát của báo chí – truyền thông là giám sát, phản ánh việc CBCCVC thực hiện các quy định, điều khoản pháp luật yêu cầu cũng như việc hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách mà chính quyền, cơ quan, đơn vị, đoàn thể… đã giao cho mỗi CBCCVC.

Bốn là, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể chính trị – xã hội trong giám sát, phản biện xã hội nói chung và giám sát TSTN của CBCCVC nói riêng. Một trong các nội dung quan trọng của công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là thực hiện giám sát xã hội đối với thu nhập, tài sản và hành vi của CBCCVC theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Theo đó, cần xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp công tác giữa cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong công tác giám sát. Quy định rõ trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đảng viên, CBCCVC trong việc tiếp thu, thực hiện và giải trình việc tiếp thu ý kiến, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua công tác giám sát.

Năm là, xử lý nghiêm những cơ quan, cá nhân chậm tổ chức kê khai; không kê khai, kê khai không trung thực; không giải trình được nguồn gốc tài sản tăng thêm; không tổ chức công khai bản kê khai; không chủ động xác minh hoặc không xử lý kịp thời những vi phạm quy định về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản.

Kiên quyết thực hiện việc xử lý TSTN được kê khai không trung thực khi bị phát hiện.Theo quy định, người kê khai TSTN không trung thực, sau khi xác minh, điều tra có kết luận thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, số tài sản không giải trình được cũng phải được xử lý một cách kiên quyết, nghiêm túc. Công ước của Liên hiệp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam đã tham gia ghi rõ: tài sản không giải trình được, bất minh thì phải tịch thu. Vì vậy, cần quy định và quyết tâm thực hiện việc tịch thu những TSTN bất minh./.

Chú thích:
1. Báo cáo chuyên đề “Pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập phục vụ việc phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam – thực trạng và kiến nghị” của Viện Nghiên cứu lập pháp – Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tháng 10/2012.
2, 5, 8. Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
3. Minh bạch kê khai tài sản. http://www.sggp.org.vn, ngày 10/9/2018.
4, 6. Số quan chức phải kê khai tài sản hàng năm chỉ còn 4.000 – 5.000 người. https://thanhnien.vn, ngày 11/12/2018.
7. Kiểm soát kê khai tài sản, góp phần phòng, chống tham nhũng. http://www.nhandan.com.vn, ngày 10/7/2018.
TS. Trương Quang Dũng
Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh