Quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0  

(QLNN) – Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho hoạt động quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học tại Việt Nam. Quản lý hiệu quả sẽ góp phần phát huy các thế mạnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, như: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nâng cao đời sống nhân dân; ngược lại, có thể là trở lực kìm hãm sự phát triển chung. Do vậy, cần có những thay đổi từ cách nghĩ, cách làm trong quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học nhằm đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.

Nhiều cuộc hội thảo về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và giáo dục được tổ chức (nguồn: internet).

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục Việt Nam trong bối cảnh xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ

Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 tác động tới công tác quản lý nhà nước (QLNN) đối với đào tạo sau đại học (ĐTSĐH) ở Việt Nam rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở đào tạo. Cụ thể:

Thứ nhất, tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở đào tạo. Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới, như: trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội1. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ thống giáo dục – đào tạo sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục ngành, chuyên ngành đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc.

Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc CMCN 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới – kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. CMCN 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa qua đào tạo, còn đòi hỏi ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều phải thay đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn.

Thứ hai, làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của CMCN 4.0 thì người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu.

Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mô hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng công nghệ có tính tương tự như Facebook, YouTube, Grab, Uber… sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức.

Học online là hình thức học tập phổ biến thời đại giáo dục 4.0 (nguồn: internet).

Người học có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay, có nhiều cơ hội để trở thành một công dân toàn cầu – người lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, trao đổi tri thức, sáng tạo, giá trị đóng góp cho xã hội. Như vậy, các cơ sở đào tạo sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, của nền kinh tế nói chung và bảo đảm để người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”2.

Tiềm năng và thách thức trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học trong bối cảnh xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ

CMCN 4.0 đòi hỏi sự thay đổi hoạt động QLNN đối với ĐTSĐH bởi sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin (CNTT). Điều này tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở ĐTSĐH. Đội ngũ này phải được chuyên nghiệp hóa và có khả năng sáng tạo cao, có phương pháp đào tạo hiện đại với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT. Có thể thấy sự tác động của cuộc CMCN 4.0 tới hoạt động QLNN là rất lớn, vừa tạo ra tiềm năng nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục. Tiềm năng và thách thức đối với hoạt động QLNN trước sự tác động của cuộc CMCN 4.0 luôn có sự đan xen lẫn nhau.

Về tiềm năng

ĐTSĐH là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động mạnh mẽ của CMCN 4.0, đặc biệt là trong bối cảnh xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ. CMCN 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong hoạt động QLNN đối với ĐTSĐH, thay đổi mục tiêu đào tạo, mô hình đào tạo truyền thống bằng cách chuyển tải và đào tạo kiến thức hoàn toàn mới. Sự phát triển CNTT, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức và phương pháp giảng dạy.

Các lớp học truyền thống với những nhược điểm như: chi phí tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, không thuận lợi cho một số đối tượng… sẽ được thay thế bằng các lớp học trực tuyến, lớp học “ảo”. Chất lượng đào tạo trực tuyến được quản lý dễ dàng bằng các công cụ hỗ trợ, như các cảm biến và kết nối không gian mạng. Không gian học tập cũng sẽ đa dạng hơn, thay vì những phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống, thì người học có thể trải nghiệm học tập bằng không gian ảo, có thể tương tác trong điều kiện như thật thông qua các phần mềm và hệ thống mạng.

Với công nghệ Big data sẽ là nguồn dữ liệu vô tận để học tập trải nghiệm về phân tích, nhận dạng xu hướng hay dự báo kinh doanh ở mức chính xác cao. Tài nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không còn là địa điểm cụ thể nữa, mà thư viện có thể khai thác ở mọi nơi với một số thao tác đơn giản. Chương trình học cũng được thiết kế đa dạng hơn, cụ thể hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học.

Những thách thức trong hoạt động quản lý đối với đào tạo sau đại học

Thứ nhất, nền tảng của CMCN 4.0 là sự kết nối giữa thế giới thật và ảo thông qua phần mềm CNTT, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy kiến thức và kỹ năng về CNTT và kỹ thuật số có vai trò rất quan trọng đối với nhà cung cấp và người tiêu dùng. Tuy nhiên, hiện tại công tác QLNN đối với ĐTSĐH còn thiếu định hướng chiến lược trong dài hạn và quy hoạch khoa học cho phát triển khu vực tư thục trong toàn hệ thống giáo dục. Các cấp quản lý chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và vị trí của cuộc CMCN 4.0 của hoạt động QLNN đối với ĐTSĐH. Đó là rào cản khá lớn để ứng dụng những tiềm năng của cuộc CMCN 4.0 trong QLNN đối với ĐTSĐH.

Thứ hai, mô hình QLNN về ĐTSĐH còn chậm đổi mới, một số mặt chưa sát với thực tiễn xã hội, chưa thực sự khuyến khích được các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực này, đặc biệt là dưới tác động của cuộc CMCN 4.0. Trong thời gian tới, mô hình QLNN về ĐTSĐH cần phải được đổi mới mạnh mẽ và ứng dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả QLNN đối với ĐTSĐH3.

Thứ ba, thách thức của việc đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và nền kinh tế đối với nguồn nhân lực trình độ cao.Yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội không chỉ đòi hỏi nguồn nhân lực có số lượng lớn mà còn đòi hỏi chất lượng cao. Xã hội và người học sẽ nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu người học. Bài toán chất lượng đào tạo là một thách thức lớn của công tác QLNN đối với ĐTSĐH trước ảnh hưởng của cuộc CMCN 4.0.

Thứ tư, dưới tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao đang chảy mạnh từ các nước đang phát triển sang các nước công nghiệp phát triển. Ở trong nước, xu hướng đó đang xảy ra theo hướng từ các trường đại học đóng trên địa bàn khó khăn sang các trường đại học ở các thành phố lớn, sang các doanh nghiệp, đặc biệt đối với đội ngũ làm công tác quản lý giáo dục.

Thứ năm, một thách thức lớn cho công tác QLNN đối với ĐTSĐH là cách thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến người học. CMCN 4.0 đòi hỏi phương thức và phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT, công nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các hình thức đào tạo online, đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng… sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp trong tương lai. Điều này tạo áp lực lớn cho công tác QLNN đối với ĐTSĐH về chuẩn bị nguồn lực, đội ngũ giảng viên, không gian học tập4.

Thứ sáu, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế 4.0, hoạt động QLNN đối với ĐTSĐH phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động quản lý đào tạo đến quản trị nhà trường để tạo ra những “sản phẩm” – nhà khoa học tương lai có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh. Học viên cao học, nghiên cứu sinh với các kiến thức, kỹ năng đang được dạy trong nhà trường hiện nay còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế 3.0 hiện tại, có thể hoàn toàn không hữu dụng với nền kinh tế 4.0 hoặc đang dễ dàng bị robot thay thế trong tương lai gần.

Thứ bảy, vấn đề đổi mới quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở đối với giáo dục và đào tạo. Với sự xuất hiện ở những lớp học ảo, nghề ảo, chương trình ảo, và những yêu cầu của thị trường lao động với những kỹ năng sáng tạo mới, đòi hỏi có sự quản lý chung để một mặt hướng tới sự bảo đảm “mặt bằng” chất lượng; mặt khác, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế sáng tạo và cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này cũng đang là vấn đề của công tác quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở, khi hệ thống cơ sở pháp lý đang trong quá trình bổ sung, hoàn thiện, về mặt quản lý, để thống nhất mặt bằng chất lượng, đòi hỏi phải tiến hành xây dựng các chuẩn và tổ chức đào tạo theo hướng chuẩn đầu ra.

Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, trong hoạt động QLNN đối với cơ sở ĐTSĐH, cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy đối với công tác QLNN về ĐTSĐH trong tổng thể chiến lược phát triển của quốc gia. Để tận dụng hiệu quả cơ hội cũng như vượt qua thách thức từ CMCN 4.0, các cơ sở GDĐH cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của CMCN 4.0; về sự thay đổi của thị trường lao động; về sứ mạng của trường đại học trong chuẩn bị nguồn nhân lực bậc cao và tham gia tái cơ cấu thị trường lao động.

Cần nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương, cơ sở giáo dục, doanh nghiệp và toàn xã hội về tác động của cuộc CMCN 4.0 tới hoạt động QLNN đối với ĐTSĐH. Tăng cường công tác QLNN tạo hiểu biết và nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng, các cơ hội và thách thức của CMCN 4.0 để có cách tiếp cận, giải pháp phù hợp, hiệu quả. Nâng cao năng lực QLNN và quản trị đại học, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học (GDĐH); bảo đảm tài chính bền vững và tăng cường tính minh bạch. Tạo sự đồng thuận của các cấp, các bộ, ngành, các cơ sở đào tạo và các bên liên quan đến GDĐH.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 trong QLNN đối với ĐTSĐH. Hoàn thiện các cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn đối với đội ngũ nhà giáo, người học, cơ sở giáo dục đào tạo, người lao động trước khi tham gia thị trường lao động, các tổ chức tham gia đào tạo; hoàn thiện các cơ chế, chính sách về phân bổ và sử dụng tài chính trong lĩnh vực ĐTSĐH. Trong đó, đối với nhà giáo, cần xây dựng các chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm ở các cấp trình độ, kỹ năng ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng.

Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo. Đổi mới cơ chế, chính sách đối với cơ sở giáo dục. Tăng cường tính tự chủ trong hoạt động QLNN về đào tạo và quản trị nhà trường đối với các cơ sở giáo dục, nhằm tạo sự linh hoạt thích ứng với sự thay đổi của khoa học – công nghệ và yêu cầu của thị trường lao động. Các cơ sở giáo dục đào tạo tự chịu trách nhiệm về phát triển đội ngũ theo hướng tinh gọn, năng động, có khả năng làm việc trong môi trường cạnh tranh cao.

Ba là, tăng cường đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo trong QLNN đối với ĐTSĐH. Hoạt động QLNN đối với mục tiêu đào tạo theo hướng thúc đẩy sáng tạo, phát triển năng lực cá nhân. Đào tạo theo định hướng khởi nghiệp có thể triển khai theo mô hình “5 trong 1”, trong đó, chuẩn đầu ra với nhiều kỹ năng mới của công dân 4.0. Thay vì giảng dạy một chương trình chung, cần quản lý tốt đối với việc đẩy mạnh xây dựng nhiều chương trình khác nhau giúp cá nhân hóa việc đào tạo; cần xác định rõ điểm mạnh, điểm yếu của từng người học để đưa ra chương trình đào tạo riêng phù hợp.

Chú trọng đào tạo các kỹ năng mới như: tìm kiếm thông tin; cập nhật phần mềm; tiếp cận và lưu trữ dữ liệu; sử dụng các thiết bị cảm biến, làm việc cùng robot; sử dụng công nghệ Blockchain; giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, sáng tạo; quản lý nhân sự; làm việc nhóm… Cần thay đổi tư duy dạy và học theo phương pháp mới để người học vừa lĩnh hội được kiến thức, vừa biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Kết hợp giữa các phương pháp truyền thống với các phương pháp mới. Đồng thời, vận dụng các phương pháp gắn với công nghệ hiện đại như dạy học trực tuyến E-learning, phương pháp giáo dục tích hợp khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (Giáo dục STEM)…5.

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong QLNN đối với cơ sở ĐTSĐH. Đẩy mạnh QLNN thực hiện Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2030”. Nhân lực ngành giáo dục phải có những năng lực sáng tạo và phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng sư phạm và những kỹ năng mềm cần thiết khác.

Đội ngũ quản lý giáo dục cũng cần được chuẩn hóa trên cơ sở chức danh nghề nghiệp gắn với vị trí việc làm. Đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, cần tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ quản lý giáo dục cả trong và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ và hiệu quả công tác. Phát triển đào tạo tại doanh nghiệp và gắn kết với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo.

Năm là, đẩy mạnh QLNN hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Đẩy mạnh các quản lý hoạt động nghiên cứu ứng dụng, công nghệ thông tin, phương tiện dạy học và quản lý đào tạo. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục cả Nhà nước và tư nhân, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở. Chú trọng các nghiên cứu mô phỏng thông qua công nghệ 4.0, nghiên cứu tương tác người – máy và tác chiến trên không gian mạng. Tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm với các học viện, trường đại học, giữa các viện nghiên cứu giáo dục, trường học trong nước với các viện, trường nước ngoài.

Chú thích:
1. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư lên xã hội. Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền thông, số 7, 2016, tr. 8.
2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục của Việt Nam. http://tapchicongthuong.vn, ngày 24/7/2017.
3, 4. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu đối với lãnh đạo chiến lược.  Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2017, tr. 43, 46.
5. Cách mạng công nghiệp 4.0 xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến. Tạp chí Giáo dục, số 1, 2018 tr. 19.
TS. Nghiêm Xuân Dũng
Học viện An ninh nhân dân