(Quanlynhanuoc.vn) – Tiêu chuẩn giảng viên cần được thể chế hóa bằng một văn bản pháp quy để tạo ra sự thống nhất trong việc đánh giá. Các tiêu chuẩn này có thể được chia thành các mức khác nhau, các cấp độ khác nhau để thuận lợi cho việc đánh giá; đồng thời, cũng tạo động lực để đội ngũ giảng viên không ngừng phấn đấu, hoàn thiện mình.
Tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức và tư cách giảng viên
Phẩm chất chính trị: đó là việc giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức trong giai đoạn hiện nay nên được đặc biệt nhấn mạnh, vì trong cơ chế thị trường ngày càng có nhiều hiện tượng tiêu cực có thể tác động xấu đến đạo đức của giảng viên. Đạo đức của giảng viên phải được giữ gìn và củng cố ngay trong hoạt động giảng dạy, trong giao tiếp giữa giảng viên và học viên, giữa giảng viên với nhau và giữa giảng viên với cơ sở giảng dạy. Phẩm chất chính trị, đạo đức của giảng viên thể hiện qua các tiêu chí cụ thể sau: nhận thức tư tưởng chính trị; thái độ chấp hành chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; nội quy, quy định của nhà trường; ý thức xây dựng tập thể.
Đạo đức, lối sống: đó là việc giữ gìn đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của giảng viên; ý thức đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; sự tín nhiệm trong đồng nghiệp, sinh viên, học viên và nhân dân; tinh thần đoàn kết, tính trung thực trong công tác; quan hệ, hợp tác với đồng nghiệp; thái độ phục vụ nhân dân và sinh viên, học viên.
Tư cách người giảng viên: đó là lòng yêu nghề; tính bao dung và không vụ lợi; gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học.
Đánh giá về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của giảng viên cần xem xét các mặt: nhận thức tư tưởng chính trị với trách nhiệm của một công dân, một giảng viên với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành quy chế của ngành, của Học viện; tôn trọng kỷ luật lao động, đạo đức lối sống, ý thức đấu tranh chống tiêu cực, sự tín nhiệm trong cơ quan, đoàn kết hợp tác với đồng nghiệp.
Tiêu chuẩn về năng lực, trình độ chuyên môn và kiến thức thực tiễn
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được thể hiện qua bằng cấp, học hàm, học vị, ngạch, bậc, các chứng chỉ về đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ…
Giảng viên sau đại học phải đạt yêu cầu ở mức độ nhất định về học hàm, học vị, bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với lĩnh vực giảng dạy; yêu cầu về ngạch, bậc để bảo đảm chất lượng giảng dạy cho mỗi loại đối tượng ĐTBD.
– Chuyên môn: trình độ tiến sỹ các chuyên ngành…
– Khả năng sử dụng ngoại ngữ (bằng cấp, chứng chỉ và khả năng nghe, nói, biên dịch, phiên dịch, tối thiểu trình độ B).
– Trình độ tin học (bằng cấp, chứng chỉ và khả năng sử dụng thực tế các chương trình, tối thiểu trình độ B).
Kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn (thể hiện qua thâm niên công tác ở các cơ quan, bộ, ngành, địa phương hoặc qua hoạt động tìm hiểu thực tế).
Đối với giảng viên sau đại học, kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Những kiến thức thực tiễn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý thuyết. Mặt khác, từ vấn đề thực tiễn cùng với kiến thức lý luận mới giúp cho học viên nhìn nhận toàn diện vấn đề, gợi mở cho học viên những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, giải quyết. Thiếu vắng những kiến thức thực tiễn, bài giảng rất dễ đi vào lý thuyết thuần túy, tẻ nhạt, không đáp ứng được yêu cầu của công tác đào tạo sau đại học.
Giảng viên sau đại học không chỉ dừng lại ở việc soạn và tổ chức thực hiện các bài giảng. Họ cần là những người tổ chức, tham gia vào các hội thảo, nghiên cứu khoa học, là tác giả của các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học. Việc nghiên cứu và chất lượng giảng dạy có mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để nâng cấp chất lượng đào tạo, trước hết phải nâng cấp vai trò của giảng viên. Các giảng viên sau đại học cần có phẩm chất của nhà nghiên cứu và thực tế công việc đòi hỏi họ phải trở thành nhà nghiên cứu.
Năng lực nghiên cứu khoa học thể hiện qua số lượng và chất lượng các công trình khoa học đã nghiên cứu và có kết quả (số lượng đề tài tham gia, kết quả nghiệm thu, số bài báo đã công bố, ý nghĩa của các công trình nghiên cứu khoa học đối với công tác giảng dạy, mức độ và hiệu quả áp dụng vào thực tế…).
Để nâng cao trình độ của giảng viên đại học, ở một số nước, số công trình công bố trong các tạp chí chuyên ngành uy tín trong nước và nước ngoài là tiêu chuẩn để đánh giá đối với người giảng viên. Ở Nhật Bản, một trong những tiêu chuẩn để giảng viên các trường đại học được tiếp tục ký hợp đồng hằng năm với trường là trong năm đó phải có 3 bài báo đăng ở các tạp chí chuyên ngành nước ngoài.
Theo chúng tôi, cần quy định việc nghiên cứu các đề tài khoa học hoặc viết bài tham gia hội thảo khoa học, đăng các nội san hoặc tạp chí nghiên cứu chuyên ngành là một tiêu chuẩn đánh giá hằng năm đối với giảng viên.
Tiêu chuẩn về kỹ năng và kinh nghiệm giảng dạy
Kinh nghiệm giảng dạy (thể hiện qua thâm niên giảng dạy trong lĩnh vực giảng dạy). Trong giảng dạy, đặc biệt là về nghiệp vụ sư phạm, phần lớn giảng viên có được không theo bài bản mà theo kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình giảng dạy. Chính vì vậy, để giảng dạy giỏi phải có cả quá trình tự rút kinh nghiệm.
Kỹ năng và kinh nghiệm của giảng viên được thể hiện qua thực tế giảng dạy (bao gồm các bài giảng trên lớp và hướng dẫn học viên nghiên cứu, thực hành). Đây luôn được coi là tiêu chí đánh giá quan trọng nhất đối với mỗi giảng viên. Dù các yếu tố bên ngoài có như thế nào thì một giảng viên tốt vẫn luôn luôn phải có những bài giảng tốt. Kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên vững vàng hay không có thể được xác định thông qua các mặt: kỹ năng chuẩn bị bài giảng; kỹ năng xây dựng nội dung bài giảng; phương pháp thực hiện bài giảng và tổ chức hướng dẫn học viên trên lớp, hướng dẫn học viên làm bài tập thực hành.
Kỹ năng chuẩn bị bài giảng.
Kỹ năng chuẩn bị bài giảng thể hiện cụ thể qua giáo án, có đầy đủ giáo án cho các bài giảng là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các giảng viên. Có thể đánh giá giảng viên qua kiểm tra giáo án ở các khía cạnh:
– Thể hiện được nội dung chính của giáo trình hoặc tài liệu chuyên môn;
– Tích lũy các thông tin bổ sung, bao gồm cả thông tin lý thuyết cũng như thông tin thực tiễn; thông tin quá khứ, thông tin thời sự, cập nhật cũng như thông tin dự báo;
– Lập kế hoạch chi tiết cho bài giảng, với sự phân bổ thời gian hợp lý, dự kiến trước các tình huống phát sinh khi thực hiện bài giảng;
– Hiển thị sẵn nội dung bài giảng lên các phương tiện như giấy, pô-ly, máy tính, mô hình (nếu cần thiết).
Kỹ năng thể hiện nội dung bài giảng.
Kỹ năng thể hiện nội dung bài giảng trên lớp được đánh giá qua các mặt:
– Bài giảng phản ánh đúng nội dung của giáo trình, tài liệu và giáo án;
– Tính khoa học, hệ thống của nội dung bài giảng;
– Giải đáp được những vấn đề lý thuyết cũng như thực tiễn liên quan đến bài giảng;
– Tính thực tiễn, cập nhật của bài giảng.
Với tiêu chí này, giảng viên cần phải căn cứ vào những khái niệm, những luận điểm lý thuyết của mình tìm ra những ví dụ thực tế để minh họa. Giờ giảng cần phải bắt đầu bằng những thông tin, những sự kiện thực tế, qua đó học viên sẽ tìm cách phân tích, giải thích, đánh giá vấn đề, và nâng lên thành khái niệm, các luận điểm khái quát. Từ những kết luận mang tính khái quát đó, học viên có thể hình thành được kỹ năng áp dụng, vận dụng vào công việc thực tiễn của chính mình. Đồng thời, bài giảng phải luôn cập nhật các thông tin về pháp luật, những thay đổi về cơ chế, chính sách trong quản lý, sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội…
Kỹ năng sử dụng phương pháp sư phạm.
Về tiêu chí đánh giá kỹ năng sử dụng phương pháp giảng dạy, theo chúng tôi, cần quan tâm đến các khía cạnh sau đây:
– Sự phù hợp giữa phương pháp mà giảng viên sử dụng với nội dung bài giảng;
– Sự phù hợp giữa phương pháp mà giảng viên sử dụng với đối tượng học viên;
– Sự vững vàng và tính hợp lý trong việc sử dụng và kết hợp các phương pháp giảng dạy;
– Mức độ phát huy được tính tích cực và kinh nghiệm của học viên thông qua việc sử dụng các phương pháp;
– Khả năng xử lý các tình huống xảy ra trong quá trình giảng dạy.
Kỹ năng sử dụng các phương tiện hỗ trợ giảng dạy.
Một số giảng viên không coi trọng việc trực quan hóa bài giảng của mình bằng các phương tiện, trang thiết bị dạy học. Đối với một cuộc thảo luận, trao đổi đơn thuần thì điều này có thể chấp nhận được, nhưng trong giảng dạy thì điều này là không nên. Học viên không chỉ cần nghe mà còn cần nhìn những gì mình đã học. Điều này góp phần củng cố kiến thức cho họ ngay trong buổi học.
Một điều cần được nhận thức rõ là sử dụng phương pháp hiện đại không hoàn toàn đồng nghĩa với phương tiện hiện đại. Bên cạnh những trang thiết bị hiện đại, giảng viên hoàn toàn có thể chủ động khai thác các phương tiện giảng dạy đơn sơ khác, như bảng ghim, bảng giấy lật, giấy A0, thậm chí chính chiếc bảng đen phấn trắng quen thuộc của mình để phục vụ cho việc giảng dạy theo phương pháp tích cực.
Để đánh giá việc trực quan hóa bài giảng, có thể căn cứ vào một số điểm:
– Độ rõ ràng của chữ viết (bảng, giấy, màn hình) đối với học viên;
– Mức độ thành thạo khi giảng viên sử dụng hình ảnh, biểu tượng để thay thế hoặc bổ sung cho chữ viết;
– Bố trí các phương tiện hiển thị ở vị trí thuận lợi cho học viên theo dõi, quan sát;
– Hiển thị được những nội dung quan trọng lên bảng (hoặc giấy) và lưu giữ thường xuyên trong giờ học.
Sử dụng các trang thiết bị hỗ trợ dạy học phải bảo đảm tính hợp lý, hiệu quả. Không phải cứ sử dụng thật nhiều phương tiện mới là tốt. Sử dụng ít phương tiện hiển thị nhưng bài giảng vẫn rõ ràng, đầy đủ đó chính là khía cạnh phản ánh năng lực của giảng viên.
Kỹ năng kiểm tra, đánh giá học viên.
Bên cạnh phương pháp giảng dạy, giảng viên cũng cần phải có cách kiểm tra, đánh giá học viên thích hợp, sao cho bộc lộ được đầy đủ và chân thực những điều học viên thu nhận được từ bài giảng.
Một số giảng viên cho rằng, trách nhiệm đối với việc kiểm tra, đánh giá học viên thuộc về bộ phận quản lý, còn phạm vi kiểm tra, đánh giá thì do nội dung và yêu cầu của giáo trình, tài liệu quy định, bản thân giảng viên không tác động vào mặt đó nên không chịu trách nhiệm. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta có thể thấy rằng, giảng viên có trách nhiệm không nhỏ trong việc kiểm tra, đánh giá học viên. Kỹ năng kiểm tra, đánh giá học viên thể hiện ở các khía cạnh:
– Kỹ năng kiểm tra, đánh giá ngay trong khi giảng bài trên lớp. Ngay trên lớp, giảng viên có trách nhiệm giám sát việc học tập của học viên và nếu chú ý thì sẽ đánh giá được ngay khả năng của từng học viên;
– Kỹ năng ra đề kiểm tra, đề thi: các đề kiểm tra, đề thi phải khuyến khích được tư duy sáng tạo, tổng hợp của học viên. Cách ra đề thi, đề kiểm tra sẽ quy định cách trả lời và cách học của học viên;
– Kỹ năng chấm bài: chấm bài hoặc đánh giá câu trả lời của học viên phải thật khách quan, dựa vào đúng thực tế giảng dạy trên lớp để cho điểm, không chỉ đơn thuần đối chiếu với nội dung cố định của giáo trình, tài liệu.
Hiện nay, một trong những nội dung đổi mới quan trọng trong các ngành đào tạo đại học là thi và đánh giá. Sử dụng các phương tiện tin học có thể cải tiến rất nhiều trong khâu này. Sau khi đã soạn và tích lũy được ngân hàng đề thi cho mỗi môn học, việc tiến hành thi và chấm thi theo trắc nghiệm khách quan đã và đang trở thành phổ biến, làm giảm nhẹ đáng kể công sức của người thầy mà lại cho kết quả một cách khách quan hơn. Đối với các trường đại học đã có nhiều phần mềm chuyên dụng cho việc ra đề thi và chấm trắc nghiệm có chất lượng cao. Thiết nghĩ, trong đào tạo sau đại học, càng cần phải đổi mới theo hướng này và đây phải cần được xem là một khía cạnh trong tiêu chuẩn của giảng viên.
Kỹ năng hướng dẫn học viên tự học tập, nghiên cứu.
Đây là một kỹ năng quan trọng đối với giảng viên sau đại học. Tự học tập, nghiên cứu, làm bài tập thực hành là hoạt động quan trọng của người học. Để giúp học viên thực hiện tốt hơn những nội dụng này, giảng viên cần có sự hướng dẫn cụ thể. Kỹ năng hướng dẫn học viên tự học tập, nghiên cứu thể hiện ở các khía cạnh:
– Giảng viên nắm được các tài liệu học tập, tài liệu tham khảo cần thiết bổ trợ cho bài giảng trên lớp;
– Biết hướng dẫn học viên cách chọn và đọc tài liệu và nêu những vấn đề để học viên tập trung chú ý khi tự nghiên cứu;
– Biết hướng học viên đến việc liên hệ kiến thức mới với thực tế công tác hoặc sử dụng trong công tác.
Kỹ năng đánh giá và tự đánh giá giờ giảng.
Trong dạy học tích cực, kỹ năng đánh giá và tự đánh giá lại là một điều cần thiết. Một giảng viên chuyên nghiệp phải biết đánh giá giờ giảng của một giảng viên khác. Việc đánh giá cần phải công khai, khách quan, công tâm. Đánh giá cần chỉ ra đúng những điểm tốt, những điểm chưa tốt của giảng viên. Đánh giá không phải là phê phán, làm giảm hình ảnh, uy tín của giảng viên được đánh giá mà cần phải là những gợi ý để giảng viên có thể giảng tốt hơn, tự hoàn thiện mình. Bản thân việc đánh giá cũng cần trở thành cơ sở để chính người đánh giá và những người khác tự hoàn thiện các kỹ năng giảng dạy của mình hơn nữa.
Tự đánh giá giờ giảng cũng là một kỹ năng cần phát triển ở mỗi giảng viên. Việc giảng viên nhận phản hồi sau giờ giảng từ học viên, từ những giảng viên khác là cần thiết, nhưng bản thân giảng viên cũng nên tự đánh giá, tự nhìn nhận về mình để từ đó có những thay đổi về phương pháp, phong cách giảng dạy sao cho phù hợp hơn. Mỗi giảng viên nếu thực sự cầu thị, mong muốn hoàn thiện chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo thì cần phải tự đánh giá, tự điều chỉnh, rút kinh nghiệm một cách thường xuyên, liên tục. Thực tế, cho thấy, không phải giảng viên nào cũng thành công từ những giờ giảng đầu tiên và không phải giảng viên nào cũng luôn thành công với một bài giảng cố định ở những đối tượng, thời điểm khác nhau. Như vậy, khả năng, biết đánh giá và tự đánh giá khiến cho giảng viên luôn ở trạng thái phát triển đi lên.
Tiêu chuẩn về tác phong, thái độ nghề nghiệp
Một giảng viên sau đại học phải có tác phong, thái độ nghề nghiệp đúng mực. Tác phong, thái độ của giảng viên có thể được xem xét trên các khía cạnh trong mối quan hệ với đồng nghiệp, học viên và trong hoạt động giảng dạy.
Một giảng viên giỏi phải luôn có thái độ tự tin. Sự tự tin giúp cho giảng viên thể hiện bài giảng của mình một cách rõ ràng, mạch lạc; sức thuyết phục đối với học viên cũng tăng lên từ sự tự tin của người thày. Sự vững vàng, chín chắn về cả chuyên môn lẫn phương pháp cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tác phong giảng viên, khiến cho học viên có thái độ tích cực hơn trong quá trình học tập.
Để nâng cao hiệu quả bài giảng, thu hút được sự tham gia của học viên vào bài giảng thì sự thân thiện, cởi mở, tôn trọng học viên là thái độ cần có ở một giảng viên chuyên nghiệp. Việc học viên tham gia vào bài giảng vừa phản ánh phương pháp được giảng viên áp dụng, vừa nói lên mối quan hệ giữa giảng viên và học viên. Giảng viên phải tạo ra một mối quan hệ tốt, cởi mở đối với học viên thì mới động viên được họ tham gia vào khóa học một cách chủ động, tích cực. Bên cạnh, thái độ tự tin, sự cởi mở, tôn trọng học viên, trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần hình thành cho mình những tác phong riêng, từ lời nói, cách đi đứng, ánh mắt, giọng nói đến thể hiện tác phong của giảng viên đều có ảnh hưởng đến sự thành công của bài giảng.
Tính chuyên nghiệp của giảng viên được thể hiện trong thái độ lao động của giảng viên. Đó là sự chấp hành các quy định về kỷ luật lao động, trách nhiệm đối với bài giảng của mình, trách nhiệm đối với học viên, với hiệu quả của khóa học…
Giảng viên thường được coi là hình tượng tiêu biểu của sự chuẩn mực, tính mô phạm. Vì vậy, vấn đề kỷ luật lao động là điều hết sức cơ bản đối với giảng viên. Tiêu chuẩn này có thể được xác định qua các tiêu chí như: Sự nghiêm chỉnh chấp hành sự phân công của tổ chức về giảng dạy; sự nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về chương trình, giáo trình, giáo án; lên lớp đúng giờ và thực hiện đúng thời gian quy định cho bài giảng; thực hiện đúng các quy định về làm việc, nghỉ ngơi của tổ chức và của Nhà nước.
Tính chuyên nghiệp của giảng viên còn được thể hiện qua thái độ lao động nghề nghiệp tích cực. Đó là tinh thần trách nhiệm cao đối công tác giảng dạy của mình, từ sự chuẩn bị bài giảng, thực hiện bài giảng đến việc đánh giá, rút kinh nghiệm sau quá trình giảng dạy. Giảng viên chuyên nghiệp có tinh thần cởi mở, biết lắng nghe để hoàn thiện mình.
Để nâng cao hiệu quả ĐTBD, giảng viên cần có thái độ tích cực học tập. Việc học tập không chỉ từ các khóa học chuyên ngành, mà còn từ các khóa ĐTBD nâng cao trình độ mà còn học tập từ đồng nghiệp, từ thực tiễn, từ học viên.