(QLNN) – Trước sự phát triển của khoa học và công nghệ, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức không nhỏ. Để vượt lên thách thức, biến những cơ hội thành kết quả phát triển, hoạt động quản lý nhà nước cần có những đổi mới để thích ứng. Bài viết đánh giá thành tựu, hạn chế của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn 2011-2019; từ đó đề xuất một số định hướng đổi mới quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tiêu chí của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình sáng tạo của Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mà ở đó khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo, hướng tới mục tiêu phát triển chủ nghĩa xã hội. Có thể đề cập một số tiêu chí của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như sau:
Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, tuân thủ các quy luật của thị trường với vai trò điều tiết của nhà nước, khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, những hạn chế của thị trường cần được giải quyết bằng chính sách chủ động của nhà nước. Thay vì khắc phục, sửa chữa những thất bại của thị trường thì trong nền kinh tế thị trường, nhà nước cần phải có năng lực dự báo, đưa ra những kịch bản để giảm thiểu những tác động tiêu cực từ những hạn chế cố hữu của kinh tế thị trường.
Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự phát triển hài hòa về động lực tăng trưởng, về vai trò nòng cốt của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, Trong đó, Nhà nước chủ động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế thị trường, mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới; gắn với bình đẳng xã hội, không chỉ dừng ở phân phối lợi ích công bằng mà phải là công bằng trong cơ hội phát triển của mỗi thành viên xã hội.
Thứ tư, kinh tế thị trường định hướng xã nội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khóa XII khẳng định nền kinh tế thị trường mà Việt Nam xây dựng không khác lạ so với kinh tế thị trường ở các nước, mà là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới, kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới, tuân thủ các nguyên tắc, quy ước, hiệp định, điều lệ, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển; thực hiện tự do hóa trên phạm vi quốc tế trong các lĩnh vực hợp tác thương mại, đầu tư, tài chính dịch vụ, lao động, việc làm, tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; thực hiện chuyển giao các thành tựu, phát minh, sáng chế khoa học công nghệ hiện đại với các quốc gia.
Thứ năm, tăng trưởng và phát triển kinh tế phải gắn với tiến bộ và sự phát triển con người trong từng bước, từng chính sách phát triển, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển cho mọi thành viên trong cộng đồng để đều được thụ hưởng lợi ích chính đáng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình, đồng thời có trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng chung của dân tộc… Đây chính là tính nhân văn, ưu việt riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến mục tiêu phát triển, bảo đảm sự phát triển của kinh tế song hành với sự phát triển của xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống.
Một số thành tựu và hạn chế của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2019
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua, chúng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ nhà nước, xã hội và thị trường trong các hoạt động quản lý nhà nước. Bình quân cả giai đoạn 2006 – 2017, GDP tăng trưởng 6,19% cao hơn tốc độ tăng GDP của thế giới.
Năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thể hiện qua chỉ số ICOR đang dần được cải thiện, từ mức 6,42 năm 2016 năm 2018. giảm xuống còn 6,11 năm 2017 và là 5,97 năm 2018.
Đến hết năm 2018, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng gần gấp đôi so với số liệu năm 2015. Với sự phát triển mạnh mẽ của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đến năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng một triệu doanh nghiệp, trong đó có 5.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2018 cho thấy, Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, đứng thứ 45/126 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng,tăng 2 bậc so với năm 2017, 14 bậc so với năm 2016.
Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5,khóa XII cũng chỉ rõ: quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hiệu lực,hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm.
Nghị quyết cũng đề ra các nhiệm vụ cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới, cụ thể là:
Thứ nhất, thể chế quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện. Nhiều vấn đề mới phát sinh mà hoạt động quản lý nhà nước chưa dự liệu, chưa tạo ra hành lang pháp lý cần thiết để quản lý. Các vấn đề phát sinh trong quản lý doanh nghiệp FDI, những yếu kém của các tập đoàn kinh tế nhà nước cho thấy khung thể chế về kinh tế thị trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Các hạn chế của khung thể chế ở Việt Nam có thể nhận thấy ở các khía cạnh: tính cụ thể, tính dự báo trước trong các quy định chính sách cần tiếp tục được cải thiện, năng lực xây dựng pháp luật chưa hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đời sống xã hội; nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật ngày càng cao của xã hội; nhu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tính khả thi và hiệu quả của pháp luật còn thấp, tình trạng văn bản thiếu tính khả thi vẫn tồn tại, làm giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào tính nghiêm minh của pháp luật. Văn bản hướng dẫn chậm được ban hành, làm chậm quá trình triển khai thực hiện.
Thứ hai, nhịp độ tăng trưởng của Việt Nam tương đối cao nhưng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, thực lực hiện có.Hoạt động quản lý nhà nước chưa tạo ra thể chế đủ sức hấp dẫn để thu hút nguồn lực đầu tư cho phát triển. Thu ngân sách nhà nước vẫn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, các khoản thu từ tài nguyên, các khoản thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách quan dẫn đến một số năm không đạt dự toán. Chính sách thu còn chưa bao quát hết các khoản như thu từ hoạt động thương mại (bán hàng qua mạng), từ quản lý tài nguyên, môi trường, tài sản…
Việc huy động nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản nhà nước hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội; vẫn còn tình trạng thất thu ngân sách nhà nước do gian lận, chuyển giá; nợ đọng thuế làm ảnh hưởng tới tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà nước…
Thứ ba, vấn đề phân bổ ngân sách cho phát triển vẫn còn những khó khăn. Trong giai đoạn 2011-2019, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Trong những năm gần đây nguồn lực nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình quân thì giai đoạn 2011-2019, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng 20%, có xu hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010 (28%). Hiệu quả đầu tư vốn nhà nước chưa cao, còn lấn át đầu tư tư nhân, nghĩa là đầu tư công gia tăng khiến đầu tư tư nhân thu hẹp lại. Tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã hội như giáo dục, y tế, hay ngành nông, lâm, thủy sản còn khá thấp và có xu hướng giảm…
Thứ tư, tăng trưởng ở Việt Nam hiện nay còn chủ yếu trên chiều rộng, trên cơ sở gia tăng các yếu tố đầu vào như tăng cường đầu tư vốn và sử dụng nhiều lao động, trong khi việc đổi mới công nghệ, cải tiến sản xuất, quản lý, nâng cao trình độ công nhân (gọi chung là các nhân tố tổng hợp – TFP) còn rất hạn chế dù đã được cải thiện tích cực qua các năm. Đóng góp của TFP ở Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 40% và vốn vẫn là yếu tố đóng góp xấp xỉ 50% vào số điểm phần trăm tăng trưởng năm 2016, dẫn tới mô hình tăng trưởng vẫn mang đặc trưng thâm dụng vốn.
Thứ năm, thực tế nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều “điểm nghẽn” ở tiến trình cổ phần hoá, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước, chậm triển khai các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, doanh nghiệp có vốn mỏng, “tín dụng đen” vẫn hoành hành, cải thiện môi trường kinh doanh chưa theo kịp với thực tiễn của đời sống kinh tế và vẫn còn rủi ro trong ứng phó với những thách thức từ bên ngoài.
Thứ sáu, nhiều vấn đề của nền kinh tế thị trường chưa được luận giải và quản lý có hiệu quả. Các biện pháp xử lý đối với hoạt động chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI, việc lợi dụng kẽ hở trong các quy định của luật liên quan đến nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa Made in Vietnam… đang làm giảm niềm tin của người dân vào hàng hóa trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
Nguyên nhân của tình trạng này đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khóa XII của Đảng chỉ rõ: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm.
Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế.Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Yếu tố tác động và định hướng đổi mới quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay
1) Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến quản lý nhà nước
Một là, về đặc trưng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc trưng của công nghệ vật lý, công nghệ số, công nghệ sinh học xích lại gần nhau, liên kết, giao thoa, hình thành nên những công nghệ mới giúp nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của con người tăng nhanh. Sự hiện hữu của vạn vật kết nối, giao thoa thực – ảo, điện toán đám mây, liên kết chuỗi (blockchain) và trí tuệ nhân tạo đã tạo nền tảng cho sự vận động và phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, quan hệ quốc tế… theo hướng thông minh, tốc độ cao, năng suất lao động cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng mang đến sự thay đổi về phương thức giao tiếp, năng lực kiểm tra, giám sát của các chủ thể trong xã hội hiện đại ở các cấp độ người dân – doanh nghiệp – chính phủ – các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, giữa các quốc gia.
Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ưu thế trong đời sống kinh tế, xã hội thuộc về các cá nhân, tổ chức, quốc gia có tri thức, năng lực sáng tạo về ứng dụng công nghệ mới, đồng thời nguy cơ bị “bỏ rơi”, “bỏ lại phía sau” càng cao đối với nhóm còn lại. Phân hóa xã hội về kinh tế, chênh lệch về trình độ phát triển của các vùng, miền của một quốc gia và giữa các quốc gia đang dần bắt nguồn từ sự chênh lệch về tri thức, sáng tạo, khả năng thích ứng với công nghệ hiện đại (thay vì ưu thế truyền thống về vốn, tài nguyên, vị trí địa lý, nhân công giá rẻ… ).
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến cơ hội phát triển, nhưng cũng đặt ra những vấn đề mới về an ninh, quốc phòng, đặc biệt những vấn đề an ninh phi truyền thống. Những hình thức tội phạm mới theo đó cũng được hình thành và phát triển. Điều này đòi hỏi cần đổi mới tư duy chiến lược về an ninh, quốc phòng, cần tập trung phát triển nhân lực an ninh, quốc phòng chất lượng cao, phát triển công nghiệp quốc phòng, phát triển khoa học và công nghệ quân sự, đủ năng lực triển khai các loại hình tác chiến chiến lược, nhất là trong các môi trường trên không, trên bộ, trên biển và không gian mạng.
Hai là, những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến quản lý nhà nước. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước. Sự thay đổi về đối tượng quản lý, khách thể quản lý, phạm vi quản lý đòi hỏi quản lý nhà nước cần phải thực sự thích ứng, thậm chí đi trước một bước trong các hoạt động quản lý.
Thể chế quản lý nhà nước cần phải được đổi mới để tạo hành lang pháp lý thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phát triển các sản phẩm số hóa, trí tuệ nhân tạo, quản lý các giao dịch trên môi trường số, quản lý thông minh, quản lý điện tử. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước cần phải thực sự tinh gọn, với khả năng đưa ra những quyết định kịp thời trên nền tảng dữ liệu đủ mạnh, được chia sẻ. Đó là nền hành chính điện tử thời gian thực mà độ trễ của chính sách được giảm xuống tối đa.
Nhân sự quản lý nhà nước cũng đối mặt với thách thức về năng lực. Quản lý nhà nước không thể là quá trình quản lý sáng tạo nếu những cán bộ, công chức – chủ thể quản lý không phải là những chủ thể sáng tạo, năng động, có tầm nhìn, biết nhận ra cơ hội và biết lường trước những thách thức để có thể tham gia có hiệu quả vào quá trình quản trị nhà nước.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm phát sinh những vấn đề mới và làm thay đổi bản chất của những vấn đề cũ,đòi hỏi quản trị nhà nước phải nâng tầm để thực hiện chức năng quản trị. Vấn đề chênh lệch giàu nghèo trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với sự chênh lệch về tri thức sáng tạo. Những người có tri thức, kỹ năng thấp hơn có xu hướng sẽ bị bỏ rơi xa hơn trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong khi đó, những người có tri thức, sức sáng tạo sẽ bứt phá ngày càng xa hơn không phải cấp số cộng mà sớm trở thành cấp số nhân. Quản trị nhà nước phải lường trước được điều này để đưa ra những giải pháp, để những người chưa có đủ tri thức và kỹ năng không bị bỏ lại bên lề của quá trình phát triển, tạo ra khả năng thích ứng với những nghề nghiệp mới khi những nghề nghiệp cũ sẽ sớm mất đi trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
2) Một số định hướng đổi mới quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay
Một là, các cơ quan quản lý nhà nước cần tích cực tìm ra điểm nghẽn trong tiến trình phát triển thông qua việc lắng nghe các ý kiến từ xã hội, từ cộng đồng doanh nghiệp, các diễn đàn trao đổi, các ý kiến tư vấn, gợi ý chính sách…
Thể chế quản lý nhà nước cần bảo đảm huy động và quản lý có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn đầu tư tài chính, nguồn ngân sách nhà nước. Cần hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực đầu tư cho phát triển thực sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư dàn trải, đầu tư mà cơ sở xác định hiệu quả chưa thực sự rõ ràng. Sự phân bổ nguồn lực cho phát triển cần dựa vào tín hiệu của thị trường, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận vốn của nông dân, các nhóm thiểu số trong xã hội.
Hai là, Nhà nước cần có lộ trình giải quyết thực sự chủ động, tích cực với các mục tiêu cụ thể. Về thể chế, Nhà nước cần cải thiện môi trường kinh doanh, đa dạng hóa các kênh tương tác trực tiếp giữa người dân và chính quyền, xây dựng cơ chế mà các chủ thể trong xã hội có thể tham gia một cách hiệu quả, trực tiếp hơn vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật để gắn với thực tiễn, nhận được sự đồng thuận cho quá trình hoạch định đến quá trình thực thi chính sách.
Ba là, Nhà nước cần phải thiết lập được thể chế thúc đẩy sự sáng tạo, cần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, nuôi dưỡng những sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo như: có cơ chế tài chính thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp với tôn chỉ doanh nghiệp là trung tâm; đổi mới cơ chế đầu tư, tài trợ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; có chính sách để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng trong nước. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác.
Bốn là, Nhà nước cần giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và xu hướng bảo hộ, giữa việc cắt giảm hàng rào thuế quan với việc gia tăng hàng rào phi thuế quan, giữa các hiệp định thương mại song phương với hiệp định giữa một quốc gia với tổ chức khu vực. Những mâu thuẫn này đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước phải có sự điều chỉnh kịp thời, thích ứng và những giải pháp cụ thể, phù hợp.
Năm là, bảo đảm sự phát triển đồng bộ của các thị trường, đẩy mạnh thị trường vốn và tiền tệ với hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, đẩy nhanh tiến trình thẩm định, định giá các doanh nghiệp nhà nước; xây dựng hành lang pháp lý cho các mô hình kinh tế số, kinh tế chia sẻ, các hình thức thanh toán mới, cho vay ngân hàng, hạn chế tình trạng “tín dụng đen”; quan tâm hơn tới kiểm soát bội chi ngân sách, nợ nước ngoài của quốc gia, cải cách cơ chế thu chi ngân sách, kể cả cơ chế phân cấp thu, chi ngân sách của các địa phương để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Sáu là, giải quyết có hiệu quả điểm nghẽn về cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu cho phát triển bền vững của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần xây dựng môi trường pháp lý hiệu quả nhằm thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân. Các hoạt động này bao gồm xây dựng khung pháp lý toàn diện về đối tác công – tư và thúc đẩy sự phát triển của khu vực tài chính trong nước, đồng thời bảo đảm hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là một nội dung quan trọng trong chương trình về cơ sở hạ tầng. Phát triển hạ tầng theo các hình thức đối tác công – tư cần phải tiếp cận theo hướng thu hút nguồn lực đầu tư cho phát triển từ xã hội, lựa chọn các đối tác có đủ năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật. Nhưng quan trọng hơn cả là những đối tác có dự án dựa trên công nghệ hiện đại, ứng dụng sâu và rộng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học trên nền tảng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo.
Bảy là, nâng cao năng lực dự báo về biến động của đời sống kinh tế – xã hội trong khu vực và trên thế giới, có khả năng đưa ra những gợi ý, những định hướng nhằm giảm sốc từ những biến động bất lợi của thị trường khu vực và quốc tế. Nhà nước cần phải là chủ thể cung cấp kịp thời những thông tin về thị trường, những tín hiệu thị trường nhằm định hướng cho hoạt động của các doanh nghiệp bắt kịp với diễn biến thực tế. Quản trị nhà nước cần có tầm tư duy khu vực và toàn cầu, tìm ra giá trị của Việt Nam trong các chuỗi sản xuất, các chuỗi giá trị toàn cầu để thực sự bắt nhịp với dòng chảy phát triển chung của nhân loại.
Tám là, xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền số, chính quyền thông minh với khả năng chia sẻ các dữ liệu quản lý nhà nước được triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo ra sự phối hợp liên ngành, liên vùng, khai thác lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi ngành, lĩnh vực, tạo ra sự kết nối cho phát triển.
Mỗi bộ, ngành, địa phương cần chủ động cắt giảm những thủ tục hành chính để cho các hoạt động kinh tế – xã hội vừa bảo đảm sự chặt chẽ cần thiết, vừa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm sự linh hoạt, thích ứng nhanh với sự thay đổi và thay thế nhanh công nghệ hiện đại, công nghệ số của doanh nghiệp. Phương thức quản lý nhà nước cần được đổi mới, tương thích với việc ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong mọi mặt của hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế, trong thời đại công nghệ số và trí tuệ nhân tạo./.