Tăng cường công tác ngoại giao kinh tế nhằm phát triển kinh tế nhanh và bền vững  

(QLNN) –  Yêu cầu cấp bách đặt ra cho công tác ngoại giao kinh tế là tiếp tục thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập, đồng thời, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, từ thị trường đến vốn, từ công nghệ đến tri thức và kinh nghiệm quản lý nhằm phục vụ công cuộc phát triển đất nước nhanh và bền vững.

 

Hội nghị tổng kết triển khai công tác đối ngoại trong năm 2019 và phương hướng năm 2020. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế (NGKT), cụ thể hóa Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 15/4/2010 của Ban Bí thư về tăng cường công tác NGKT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về hội nhập quốc tế (HNQT), những năm qua, ngành Ngoại giao đã chủ động và tích cực đẩy mạnh công tác NGKT, đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp to lớn vào tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, NGKT đã chuyển mình mạnh mẽ cả về lượng và chất, đóng góp tích cực, thiết thực cho thành công chung của đối ngoại Việt Nam. Những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 35 năm qua đã khẳng định vai trò quan trọng của ngoại giao trong tiến trình HNQT. Việt Nam đã gia nhập ASEAN năm 1995, APEC năm 1998, trở thành thành viên sáng lập của nhiều diễn đàn, liên kết khu vực và quốc tế quan trọng như Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), ký Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên minh châu Âu… Những bước đi chủ động, tích cực trong HNQT đã mang lại những lợi ích thiết thực cho đất nước, góp phần đưa Việt Nam trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng quốc tế.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 nước, hình thành mạng lưới 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, trong đó có tất cả các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Đồng thời, xây dựng khuôn khổ thương mại tự do với gần 60 nước thông qua 16 hiệp định thương mại tự do, bao gồm các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA)… Việt Nam cũng khẳng định vai trò là thành viên tích cực có trách nhiệm tại các cơ chế khu vực và quốc tế quan trọng1.

Ở cấp địa phương, từ năm 2016 tới nay, với sự đồng hành của Bộ Ngoại giao, các địa phương đã chủ động triển khai HNQT, ký 420 thỏa thuận quốc tế trong tất cả lĩnh vực, phát huy thế mạnh từng vùng miền, từng ngành hàng. Đây là những tiền đề quan trọng tạo thêm xung lực mới để đất nước bước vào giai đoạn tăng trưởng bền vững hơn, thực chất hơn2.

Năm 2019, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại; cạnh tranh chiến lược và căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn gia tăng; giá vàng tăng cao, giá dầu thô biến động mạnh; rủi ro trên thị trường quốc tế tăng lên; nhiều quốc gia phải nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ… Ở trong nước, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế và thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của người dân.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn hoàn thành toàn diện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, là năm thứ 2 liên tiếp đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu. Tốc độ tăng GDP cả năm đạt 7,02%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực, thế giới. Tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra trong khi vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát tốt và các cân đối lớn của nền kinh tế được củng cố, mở rộng.

Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục được cơ cấu lại, dựa trên đổi mới mô hình tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh cải thiện rõ rệt. Các tổ chức quốc tế uy tín, nhiều quốc gia, đối tác đánh giá cao và khẳng định Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng trong khu vực, toàn cầu. Việt Nam được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018. Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam cải thiện vượt bậc trên cả 3 trụ cột: thể chế, kết cấu hạ tầng và kỹ năng, xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 20183.

Năm 2019 cũng là năm ghi dấu ấn quan trọng cho quá trình HNQT nói chung và công tác NGKT nói riêng của Việt Nam. Thông qua đẩy mạnh HNQT, vai trò và vị thế Việt Nam tiếp tục được nâng cao, quan hệ với các nước và các đối tác đều được mở rộng và sâu sắc hơn. Việt Nam đã tổ chức tốt các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều hội nghị, sự kiện quốc tế lớn, đã trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc với số phiếu tuyệt đối; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc. Đặc biệt, việc ký Hiệp ước, Nghị định thư với Cam-pu-chia về phân giới, cắm mốc đạt 84% biên giới đất liền là một sự kiện lịch sử quan trọng4.

Thực tế cho thấy, NGKT không chỉ góp phần tạo lợi ích đan xen, làm sâu sắc quan hệ giữa nước ta với các đối tác, đặc biệt các đối tác chiến lược và có tầm chiến lược mà còn từng bước đưa quan hệ kinh tế nói riêng và quan hệ song phương nói chung với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Ở bình diện song phương, ngoại giao đã đi đầu, thúc đẩy hình thành có trọng tâm các kênh hợp tác mới, khả thi, dài hạn, nhất là với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đồng thời tháo gỡ những vướng mắc trong quan hệ kinh tế song phương.

Trên mặt trận đa phương, Bộ Ngoại giao cùng các bộ, ngành đã vận động các nước thành viên, thúc đẩy các đàm phán, ký kết và phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới, bảo đảm lợi ích then chốt, vị thế đối ngoại và quan hệ của Việt Nam với các đối tác quan trọng. Với 16 hiệp định tự do thương mại đã ký kết, Việt Nam đang ngày càng chủ động tham gia và góp phần vào hình thành hệ thống thương mại quốc tế.

Cùng với thể chế ổn định, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đặc biệt, là đối tác, đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược với nhiều quốc gia khác nhau (trong đó có các đối tác chủ chốt như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga) bảo đảm ổn định, thuận lợi cho đất nước trong giao thương quốc tế. Công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân cũng được triển khai tích cực.

Với thế mạnh đặc thù về mạng lưới các cơ quan đại diện, ngành Ngoại giao không chỉ chú trọng công tác nghiên cứu, thông tin, tham  mưu về tình hình, diễn biến, triển vọng kinh tế thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế trong và sau khủng hoảng tác động đến Việt Nam mà còn học hỏi kinh nghiệm quốc tế về xử lý khủng hoảng; các khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm đối phó với thách thức kinh tế vĩ mô và tranh thủ cơ hội từ xu hướng tái cấu trúc kinh tế sau khủng hoảng… để phục vụ công tác điều hành vĩ mô của Chính phủ và các cấp, các ngành.

Một trong những ưu tiên hàng đầu của NGKT chính là nghiên cứu, dự báo và tham mưu về kinh tế thế giới phục vụ cho Chính phủ và các bộ, ngành trong điều hành kinh tế; kiến tạo và giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Với nỗ lực thúc đẩy những lợi ích kinh tế thiết thực, nâng cao hình ảnh và vị thế đối ngoại của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, các cơ chế hợp tác tiểu vùng như GMS, CLV, AMECS, vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục được khẳng định và giành được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế.

Năm 2017, chúng ta đã đảm nhiệm xuất sắc vai trò chủ nhà APEC 2017. Đây có thể coi là đợt triển khai NGKT lớn với thành công nổi bật là tận dụng triệt để cơ hội do APEC mang lại để phục vụ những lợi ích kinh tế cụ thể. Việt Nam đã khởi xướng ý tưởng, lồng ghép thành công các nội dung phục vụ lợi ích lâu dài của Việt Nam, như phát triển bao trùm, nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, thương mại điện tử, doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, an ninh lương thực và biến đổi khí hậu. Năm 2018, Việt Nam tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế quan trọng như Diễn đàn Nghị viện châu Á – Thái Bình Dương (APPF) lần thứ 26, Hội nghị thượng đỉnh tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) lần thứ 6, Hội nghị cấp cao Tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam (CLV) lần thứ 10…

Việt Nam-Lào đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế trong tình hình mới ((Ảnh: Văn Điệp/TTXVN).

Đặc biệt, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) do Việt Nam tổ chức tháng 9/2018 tại Hà Nội được đánh giá là thành công nhất trong lịch sử 27 năm qua của Diễn đàn này, tạo được nhiều dấu ấn sâu đậm và sáng kiến của Việt Nam. Là nơi khởi nguồn các ý tưởng mới, sáng tạo, Hội nghị WEF ASEAN 2018 cung cấp nhiều ý tưởng, “tư liệu” hữu ích cho Việt Nam trong xây dựng, triển khai các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội cũng như trong chuẩn bị cho đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020…

Tháng 12/2018, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL), tạo điều kiện cho chúng ta tham gia định hình Luật Thương mại quốc tế ngay từ giai đoạn đầu theo hướng phù hợp với lợi ích của đất  nước.

Theo thống kê, năm 2017, có 51 đoàn cấp cao ra và vào Việt Nam, tăng 30% so năm 2016. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã thực hiện 18 chuyến thăm đến 19 nước, dự 8 hội nghị quốc tế đa phương, đồng thời đón 36 lượt nguyên thủ và thủ tướng các nước đến thăm Việt Nam.  Năm 2018, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện 28 chuyến thăm nước ngoài và dự các hội nghị quốc tế lớn, đón 33 đoàn lãnh đạo cấp cao các nước thăm và dự các hoạt động quan trọng tại Việt Nam cùng hàng trăm cuộc tiếp xúc cấp cao bên lề các hội nghị đa phương quan trọng. Nhờ các chuyến thăm này, Việt Nam đã xây dựng được trọng tâm cơ chế cũng như khuôn khổ hợp tác thuận lợi trên từng lĩnh vực để phát triển kinh tế đất nước…5.

Năm 2019, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều tiếp tục góp phần thiết thực triển khai đường lối đối ngoại, các chủ trương về ngoại giao song phương và đa phương của Việt Nam, tạo đà để Việt Nam đảm nhận tốt trọng trách chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2020 và ứng cử làm hội viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021.

Như vậy, NGKT đã góp phần kiến tạo những điều kiện cần cho chuyển tiếp kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt là việc duy trì giá trị cốt lõi của thương mại, đầu tư tự do và mở, ủng hộ cho hệ thống thương mại đa phương. Công tác tham mưu, nghiên cứu kinh tế được đẩy mạnh theo nhiều cấp độ và hình thức, kịp thời tham mưu cho Chính phủ, các bộ, ngành trong điều hành kinh tế – xã hội, có đối sách phù hợp với những vấn đề nảy sinh, tham gia hiệu quả hơn vào các sáng kiến kinh tế mới nổi.

Đặc biệt, Bộ Ngoại giao đã đa dạng hóa, đa phương hóa các kênh, nguồn thông tin, tranh thủ tối đa hợp tác của các đối tác nước ngoài như các viện nghiên cứu kinh tế lớn của nước ngoài, Đại học Harvard, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Viện Nghiên cứu kinh tế Đông Á (ERIA) nhằm cung cấp thông tin, đánh giá, dự báo đa chiều, đa diện cho Chính phủ. Công tác xúc tiến, tìm kiếm, mở rộng thị trường thương mại – đầu tư được chuyên nghiệp hóa và bước đầu tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cụ thể.

Bộ Ngoại giao cũng ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ các địa phương khó khăn, vùng sâu, vùng xa, ít có cơ hội tiếp xúc, làm việc với đối tác nước ngoài; tổ chức thành công các Hội nghị “Gặp gỡ Đại sứ” nhằm kết nối các địa phương với các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam.

Đối với hệ thống doanh nghiệp, các cơ quan đại diện và các đơn vị của Bộ Ngoại giao cũng tích cực hỗ trợ việc tìm hiểu tập quán kinh doanh, tìm kiếm cơ hội đầu tư, xác minh năng lực đối tác, thâm nhập thị trường nước ngoài, bảo hộ lợi ích và hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong tranh chấp thương mại. Phát huy vai trò cầu nối, các cơ quan đại diện của ta đã hỗ trợ cung cấp thông tin về môi trường đầu tư kinh doanh, giải đáp các thắc mắc về quy định kinh doanh tại Việt Nam, hỗ trợ nhiều tập đoàn nước ngoài mở rộng, tăng cường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Năm 2018, Bộ Ngoại giao lần đầu tiên tổ chức Tọa đàm giữa các trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở hơn 90 quốc gia với gần 400 doanh nghiệp để trao đổi về nhu cầu cần hỗ trợ của doanh nghiệp và cùng thảo luận về cơ chế hỗ trợ trong thời gian tới. Trên trang NGKT trực tuyến, Bộ Ngoại giao cũng chính thức giới thiệu với doanh nghiệp Hồ sơ các thị trường, trong đó nhấn mạnh đến các lĩnh vực hợp tác doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác NGKT cũng bộc lộ một số bất cập, như việc cung cấp thông tin tham mưu chiến lược về tình hình kinh tế thế giới, về đối tác, thị trường của ngành Ngoại giao trong thời gian qua tuy đã được tăng cường nhưng chưa đủ; công tác quảng bá hình ảnh đất nước, hỗ trợ xúc tiến kinh tế đối ngoại chưa ngang tầm với tiềm năng quan hệ giữa Việt Nam và đối tác.

Sự phối hợp của các cơ quan liên quan trong việc triển khai công tác NGKT có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Công tác thông tin về pháp luật, tập quán kinh doanh và thương mại quốc tế cũng như về các thị trường cụ thể tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại và việc hỗ trợ, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam còn có những hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm công tác NGKT cần tiếp tục được nâng cao năng lực và trang bị những kỹ năng cần thiết, nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật kinh tế quốc tế, kỹ năng thương lượng, đàm phán, vận động…

Năm 2020, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Tăng trưởng kinh tế, thương mại quốc tế tiếp tục xu hướng giảm; bảo hộ thương mại gia tăng; cạnh tranh giữa các nước lớn và xung đột ở nhiều nơi gay gắt. Các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an toàn thông tin, an ninh mạng và tội phạm ngày càng gia tăng.

Đây cũng là năm quan trọng để quyết định Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội với trọng tâm phát triển là nâng cao tính tự chủ, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến hay không.

Với yêu cầu này, công tác NGKT trong giai đoạn tới phải gắn chặt với các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó ưu tiên:

Thứ nhất, tập trung kiến tạo môi trường chính trị đối ngoại và pháp lý thuận lợi cho hợp tác kinh tế; xử lý vướng mắc tại các dự án lớn; tìm kiếm và mở thị trường mới, đồng thời củng cố và mở rộng thị trường hiện có cho hàng hóa, dịch vụ và lao động Việt Nam. Tìm kiếm lĩnh vực, phương thức hợp tác mới nhằm tăng cường đan xen lợi ích với các đối tác chiến lược, toàn diện; tận dụng lợi thế của các FTA (CPTPP; EVFTA…) để củng cố các thị trường truyền thống.

Thu hút các nguồn lực phục vụ cho phát triển bền vững, bao gồm ODA, vốn vay ưu đãi và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó ưu tiên các nguồn FDI chất lượng cao trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D), công nghệ cao (nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp thông minh, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế tạo giàu hàm lượng sáng tạo) gắn liền với chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường. Thúc đẩy và tạo thuận lợi cho nền kinh tế và các doanh nghiệp của nước ta tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực.

Thứ hai, bám sát Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia thực chất vào các diễn đàn kinh tế khu vực, các diễn đàn quản trị kinh tế toàn cầu, chuẩn bị tiền đề tốt cho Năm Chủ tịch ASEAN 2020. Thúc đẩy và tranh thủ hỗ trợ quốc tế nhằm triển khai Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững và Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu đến năm 2030, trong đó ưu tiên các vấn đề thích ứng biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước và phát triển công nghệ xanh.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức triển khai các hoạt động NGKT theo hướng lựa chọn các địa bàn, nhiệm vụ, lĩnh vực hợp tác trọng tâm và có tính khả thi. Đẩy mạnh tìm kiếm nguồn lực đầu tư thay thế và mô hình hợp tác mới phục vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và khoa học – công nghệ. Thúc đẩy hình thành các kênh hợp tác mới, khả thi, dài hạn và mang tính chiến lược, tháo gỡ những vướng mắc chính trong quan hệ kinh tế song phương. Xây dựng kế hoạch công tác NGKT phù hợp với từng nhóm đối tác, đưa quan hệ kinh tế với các đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả, tăng cường sự gắn kết và đan xen lợi ích về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng.

Bảo vệ, mở rộng lợi ích và nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, các tổ chức quốc tế trong quá trình hình thành và triển khai các sáng kiến, thỏa thuận, cơ chế hợp tác kinh tế quốc tế, xây dựng các luật lệ kinh tế quốc tế nhằm hỗ trợ quá trình tái cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững – sáng tạo – bao trùm, kết nối tham gia các chuỗi giá trị – cung ứng, bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh an toàn hàng hải, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai… Việt Nam cần chủ động tham gia, đóng góp đối với các mối quan tâm chung của quốc tế về kinh tế và phát triển.

Thứ tư, tiếp tục nâng cao chất lượng; tăng hàm lượng tư vấn, kiến nghị trong các báo cáo, các bản tin cho Chính phủ, bộ, ngành và doanh nghiệp; thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin kinh tế thế giới phục vụ Chính phủ điều hành kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh nghiên cứu, thông tin và tham mưu kinh tế theo nhiều cấp độ và nhiều hình thức khác nhau.

Chú trọng các thông tin/nghiên cứu về vận động của kinh tế thế giới, các xu thế phát triển, các sáng kiến mới (nhất là của các nước lớn trong liên kết kinh tế…) để phát hiện cơ hội, dự báo thách thức và có đối sách phù hợp. Tìm hiểu và tổng kết về kinh nghiệm của các nước giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, kinh nghiệm thực thi các cam kết hội nhập thế hệ mới cũng như biện pháp hạn chế tác động tiêu cực, kinh nghiệm triển khai các chính sách nhằm thực hiện Chương trình nghị sự 2030…

Thứ năm, chủ động triển khai hoặc tư vấn, định hướng và hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp đổi mới hình thức, nội dung quảng bá, xúc tiến kinh tế đối ngoại bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thiết thực thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, lao động, thu hút đầu tư và du lịch. Chủ động đóng góp, tích cực tham gia xây dựng và định hình các cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế đa phương, nâng cao vị thế và bảo vệ lợi ích của đất nước.

Công tác NGKT cần lấy doanh nghiệp và địa phương làm trung tâm, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam vươn ra hội nhập với thế giới. Đồng thời, hỗ trợ cộng đồng Người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục hội nhập thành công vào xã hội sở tại, củng cố vị thế và địa vị pháp lý ở các địa bàn chiến lược cả về chính trị, an ninh và kinh tế, tạo điều kiện mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam ở nước sở tại; đồng thời, tăng cường đầu tư và kiều hối đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Chú thích:
1. Phát biểu của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hội nghị “Gặp mặt Đại sứ các nước Trung Đông – châu Phi năm 2019”, ngày 09/9/2019.
2. Ngoại giao Việt Nam làm tốt vai trò tạo kết nối, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. https://bnews.vn, ngày 13/8/2018.
3, 4. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2019 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 của Chính phủ, ngày 21/10/2019.
5. Bản lĩnh Ngoại giao và tầm nhìn chiến lược. https://baoquocte.vn, ngày 05/02/2019.
Tài liệu tham khảo:
1. Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 15/4/2010 của Ban Bí thư về Tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.

TS. Khuất Thị Thu Hiền
Trường Đại học Lao động – Xã hội