Thể chế chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Những vấn đề cần bổ sung và phát triển trong bối cảnh mới

Bài 3: Thể chế chính trị Việt Nam trước yêu cầu mới – Những vấn đề đặt ra cần bổ sung, phát triển

(Quanlynhanuoc.vn) – Đảng Cộng sản Việt Nam với sứ mệnh lãnh đạo quá trình xây dựng thể chế chính trị, là hạt nhân, quyết địnhNhà nước là rường cột của chế độ, của thể chếquản lý và điều hànhNhân dân là chủ thể quyền lực, tham gia trực tiếp và phát huy vai trò sáng tạo trong xây dựng thể chế. Xét về mặt quan hệ, thể chế chính trị Việt Nam với những vấn đề cần bổ sung, phát triển nêu trên là thực hiện mối quan hệ giữa các chủ thể: Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ, hướng vào mục tiêu phát triển “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ XI, khóa XII của Đảng. Ảnh: TTXVN
Tính chất và đặc điểm của thể chế chính trị Việt Nam hiện nay

Nước ta tiến hành đổi mới đã hơn ba thập kỷ nay nhưng vẫn là nước nông nghiệp, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường. Phải qua hai, ba thập kỷ nữa mới có thể trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việt Nam vẫn đang ở thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội.

Loại hình phát triển của Việt Nam là “phát triển rút ngắn”. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, do đó không thể là quá độ trực tiếp mà là “quá độ gián tiếp”.

Lý thuyết cũng như thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy, thời kỳ quá độ mà Việt Nam phải trải qua là rất lâu dài, thông qua nhiều bước chuyển tiếp rất phức tạp mang tính đặc thù. Đó là:

– Chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, từ đất nước bị chia cắt sang thống nhất Tổ quốc, từ sự khác biệt thể chế (do hoàn cảnh lịch sử quy định) sang thống nhất một chỉnh thể (chế độ chính trị), một thể chế, một hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước quản lý.

– Chuyển từ thế bị bao vây, cấm vận bởi các thế lực thù địch và nền kinh tế – xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX sang chủ động đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế; thoát ra khỏi khủng hoảng, vượt qua trạng thái lạc hậu, kém phát triển, đi vào quỹ đạo phát triển, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, phấn đấu đạt mặt bằng phát triển chung của các nước trong khu vực và quốc tế. Đây là bằng chứng cho thấy tính đúng đắn, kịp thời của quyết sách đổi mới, mở cửa và hội nhập. Đó là con đường tất yếu của phát triển, trước hết là phương thức giải quyết cuộc khủng hoảng, tạo lập ổn định, đón kịp thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập, mở rộng hợp tác song phương và đa phương để khai thác các ngoại lực, phát huy nội lực phát triển. Thế và Lực của Việt Nam đạt được như hiện nay là cơ sở bảo đảm cho thể chế chính trị Việt Nam đổi mới và phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện, đổi mới đồng bộ giữa kinh tế với chính trị giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, đổi mới cả mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững1.

– Chuyển từ nhận thức cũ, tư duy lý luận cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình “chủ nghĩa xã hội hiện thực Xô Viết” với kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa tập trung quan liêu, phân phối bình quân, bao cấp, “phát triển đơn trị”, “tuyến tính” (chỉ trong một hệ thống xã hội chủ nghĩa Xô Viết), thực chất là đóng cửa các mối quan hệ với phương Tây tư bản chủ nghĩa… sang nhận thức mới, tư duy lý luận mới về chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường, dân chủ hóa, nhà nước pháp quyền, đa phương hóa, đa dạng hóa trong hợp tác, cạnh tranh với các loại đối tác trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập. Cùng tồn tại, cùng hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh, không để những khác biệt ý thức hệ cản trở hội nhập và hợp tác.

Trong bước chuyển rất quan trọng này, từ tổng kết thực tiễn, Đảng ta từng bước tìm thấy câu trả lời “Chủ nghĩa xã hội là gì?” và “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào trong điều kiện mới, bối cảnh mới, yêu cầu mới?”. Đó là “Chủ nghĩa xã hội hiện thực mới”, “chủ nghĩa xã hội Việt Nam” không chỉ giữ vững nền tảng lý luận Mác xít (chủ nghĩa xã hội khoa học) mà còn bổ sung, phát triển sáng tạo, nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân, tính thời đại. Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết, theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thấm nhuần. Khẳng định phát triển đất nước là lợi ích cốt lõi của quốc gia. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định sức mạnh và thắng lợi.

Mục tiêu của đổi mới, của phát triển đồng thời là đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2. Các giá trị dân chủ, con người, văn hóa… được khẳng định là mục tiêu, động lực của phát triển Việt Nam trong đổi mới và hội nhập. Giải quyết thành công những bước chuyển tiếp lịch sử đó, trước hết là nhờ sự kiên định lập trường có tính nguyên tắc “Định hướng xã hội chủ nghĩa”, có bước đi phù hợp, có giải pháp sáng tạo, thiết thực, đem lại lợi ích thường nhật cho dân chúng, dân được thụ hưởng trực tiếp lợi ích từ đổi mới để sẵn sàng nhập cuộc với đổi mới, ủng hộ đổi mới và hành động vì đổi mới.

Thành quả của đổi mới được đánh giá là to lớn, có ý nghĩa lịch sử là thành quả do dân tạo ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân trở thành đồng chủ thể kiến tạo đổi mới. Nhân dân cũng là đồng tác giả của công trình đổi mới hơn 30 năm qua ở Việt Nam. Đổi mới là sự cộng hưởng đặc sắc giữa Ý Đảng với Lòng dân và Phép nước3.

Điểm nhấn đặc biệt trong những thành tựu đó là gì? Đó là:

– Đổi mới trên tiền đề giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã hội một cách tích cực, bằng cách đem lại lợi ích cho người dân, tạo được đoàn kết và đồng thuận xã hội và dân ủng hộ đổi mới. Cơ sở xã hội quan trọng nhất để bảo đảm ổn định và phát triển là lòng dân. Nhờ đó đã làm sáng tỏ một trong những mối quan hệ lớn, cơ bản, có tính quy luật trong đổi mới và phát triển của Việt Nam là quan hệ giữa ổn định với đổi mới và phát triển. Ổn định là tiền đề, đổi mới là điều kiện và phương thức, phát triển là mục tiêu4.

– Đi vào cải cách chính trị, thể chế chính trị là một vấn đề rất phức tạp, đụng chạm tới các quan hệ quyền lực, nhiều nước rơi vào rối loạn bởi những xung đột, thậm chí đổ vỡ khi chìm ngập trong những khủng hoảng chính trị, xuất hiện “những khoảng trống nguy hiểm”, khoảng trống ý thức hệ và khoảng trống quyền lực. Sự kiện Liên Xô và Đông Âu là một minh chứng điển hình. Vậy mà, ở Việt Nam, Đảng ta đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, không để xảy ra khủng hoảng chính trị. Thành công này rất đặc sắc, nói lên bản lĩnh của Đảng trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, đồng thời là sức mạnh của đoàn kết, đồng thuận trong cộng đồng dân tộc và nhân dân5.

– Nhờ phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường mà tạo ra xung lực kinh tế để phát triển dân chủ. Nhờ xây dựng nhà nước pháp quyền mà tạo ra bảo đảm pháp lý quan trọng để phát triển kinh tế thị trường và quản lý phát triển xã hội.

Trong mô hình phát triển của Việt Nam, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và dân chủ là những trụ cột ngày một định hình. Tạo ra những điểm nhấn đó, có vai trò ngày càng rõ nét của thể chế chính trị Việt Nam, vừa xây dựng, vừa đổi mới, vừa phát triển.

Từ những trình bày nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét khái quát về lý luận sau:

Thứ nhất, thể chế chính trị Việt Nam là thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa. Đó là một thể chế xét về tính chất, bản chất là xã hội chủ nghĩa nhưng về mặt lịch sử và trình độ phát triển thì đó là một thể chế quá độ, đang trong thời kỳ quá độ tới chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà chủ nghĩa xã hội còn đang trong quá trình phát sinh và hình thành, các nhân tố xã hội chủ nghĩa, từ kinh tế đến chính trị, từ văn hóa đến con người và xã hội mới chỉ là xu hướng, khuynh hướng phát triển chứ chưa định hình. Do đó, xét về mặt lý luận, Đảng ta dùng khái niệm “Định hướng xã hội chủ nghĩa” là tương thích với khái niệm “thời kỳ quá độ”, cả nội dung lẫn hình thức. Cũng do đó, thể chế chính trị Việt Nam trong đổi mới, hội nhập hiện nay là thể chế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở kinh tế của thể chế chính trị Việt Nam đang xây dựng, đổi mới và phát triển.

Thứ hai, thể chế chính trị Việt Nam là sự phát triển hợp lôgic từ chính thể cộng hòa dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đến chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ năm 1945 -1976 và hiện nay). Đó là thể chế vừa có tính kế thừa vừa có phát triển, thông qua phương thức đổi mới.

Thể chế chính trị đó đã thực hiện những bước chuyển tiếp từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ chế độ dân chủ nhân dân với mô hình nhà nước chuyên chính vô sản sang chế độ xã hội chủ nghĩa, xác lập nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Thể chế trong quá trình xây dựng và vận hành có những biến đổi nhưng nguyên tắc chính trị cơ bản thì không thay đổi. Đó là lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là các giá trị dân chủ, công bằng, bình đẳng, là độc lập – tự do – hạnh phúc.

Đó là địa vị, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Thứ ba, thể chế chính trị Việt Nam là thể chế chính trị nhất nguyên và một Đảng. Nhà nước pháp quyền nhưng không tam quyền phân lập mà thực hiện quyền lực tập trung thống nhất không phân chia thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể ủy quyền, trao quyền lực cho nhà nước do Nhân dân xây dựng và kiểm soát. Trong các thực thể của cấu trúc nhà nước có sự phân công, phối hợp theo chức năng và nhiệm vụ để thực thi quyền lực của Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước là chủ thể thực hiện sự ủy quyền của Nhân dân, bảo đảm dân chủ theo phương thức dân chủ đại diện và ngày càng mở rộng dân chủ trực tiếp để Nhân dân tham gia quản lý nhà nước và kiểm soát quyền lực, phòng tránh và ngăn chặn sự tha hóa quyền lực. Thể chế chính trị đó luôn đứng trước yêu cầu đổi mới tự đổi mới để chủ động hội nhập quốc tế. Rõ nhất là, phải đổi mới thể chế luật pháp sao cho phù hợp với hệ thống chuẩn mực luật pháp quốc tế, tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam thành công.

Tính chất đặc điểm nêu trên của thể chế chính trị Việt Nam đặt ra những vấn đề cần bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu mới từ trong nước tới quốc tế.

Yêu cầu mới, nói một cách khái quát là: giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển; hướng tới phát triển bền vững với ba trụ cột mà thế giới khuyến cáo: kinh tế – xã hội – môi trường. Với Việt Nam, để phát triển bền vững còn phải chú trọng tác nhân chính trị, nổi bật ở đổi mới thể chế chính trị, đổi mới hệ thống chính trị và chính trị nói chung. Ngoài tác nhân chính trị còn là tác nhân văn hóa với tư cách là nhân tố nội sinh của phát triển. Yêu cầu mới đặt ra còn là giữ vững chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và đáp ứng kịp thời những tác động, ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả hoạt động quản lý nhà nước.

Để đáp ứng yêu cầu mới đó, phải có một thể chế chính trị mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, linh hoạt, sáng tạo mà mấu chốt là đạt được sự tương tác giữa hệ thống luật pháp, chính sách, cơ chế và các chế tài với hệ thống tổ chức bộ máy tinh gọn, rành mạch chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chất lượng nguồn nhân lực hiện đại, chuyên nghiệp và chuyên môn hóa cao, trong sạch, liêm chính, kỷ luật và kỷ cương, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý.

Những vấn đề đặt ra cần bổ sung, phát triển về thể chế chính trị Việt Nam

(1) Vấn đề thứ nhất, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và bảo đảm tính thống nhất, nhất quán luật pháp theo đúng tinh thần Hiến pháp, tính đồng bộ trong thực thi luật pháp và cải cách hành chính, cải cách tư pháp.

Đây là vấn đề hàng đầu đặt ra đối với nhà nước pháp quyền, đối với thể chế chính trị Việt Nam. Luật pháp là sức mạnh của thể chế, của Nhà nước, là công cụ hữu hiệu của quản lý, là hành lang vận động của dân chủ mà cũng là tính chế ước tất yếu cần thiết của hoạt động, điều hành chính sự, kể cả hoạt động của Đảng cầm quyền. Phải đề cao tính uy nghiêm và sức mạnh cưỡng chế của luật pháp. Tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Không có ngoại lệ. Không ai có quyền ở ngoài và đứng trên pháp luật.

Để “thượng tôn pháp luật” không dừng lại là một tuyên bố pháp lý mà phải trở thành hành động thực tế, cần phải kết hợp giữa giáo dục ý thức pháp luật với kiểm soát hành vi công dân, trước hết là hoạt động và hành vi của công chức, quan chức, dùng sức mạnh dư luận xã hội để phê phán và dùng pháp luật để xử lý mọi hành vi coi thường, vi phạm luật pháp.

Trên phương diện thể chế pháp luật, có nhiều bộ luật, luật còn thiếu hoặc đã chuẩn bị nhưng chưa hoàn thành, chưa được Quốc hội thông qua, cần phải tập trung giải quyết.

– Phải xây dựng, ban hành và thực hiện Luật về Đảng. Dù chỉ có một Đảng, lại là Đảng cầm quyền và Hiến pháp năm 2013 đã có một điều, khoản (Điều 4 gồm các khoản 1, 2 và 3) Hiến định và chế định rõ ràng về vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng, bảo đảm tính chính đáng, chính danh của Đảng song vẫn rất cần phải có Luật về Đảng.

Ban hành luật này là cần thiết cho Đảng mà cũng cần thiết cho xã hội, cho nhân dân, trong tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng. Luật đó không hề cản trở hoạt động của Đảng, cũng không hề làm suy giảm vị thế, vai trò của Đảng, trái lại làm tăng địa vị pháp lý của Đảng, nâng cao vai trò, trọng trách của Đảng trước xã hội và nhân dân. Đảng cần chủ động và ý thức đầy đủ về điều đó. Một Đảng cầm quyền, việc thực thi dân chủ và bảo hiến, chống vi hiến luôn đặt ra và bản thân Đảng phải chủ động, phòng tránh nguy cơ dễ mắc phải.

Luật về Đảng cùng với Hiến pháp, với Đảng còn có Cương lĩnh và Điều lệ sẽ hợp thành hệ thống các căn cứ pháp lý – chính trị giúp cho hoạt động của Đảng, tham chính và chấp chính của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị có hiệu quả hơn.

Bản thân Điều lệ Đảng cũng vậy. Phải coi đây là bộ luật có hiệu lực uy nghiêm trong toàn Đảng, từ người đứng đầu đến mọi đảng viên, mọi tổ chức Đảng.

Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc cần phải sửa, bổ sung Điều lệ theo thẩm quyền cho phù hợp với thực tiễn biến đổi trong Đảng và xã hội.

Cần phải bổ sung vào Điều lệ những quan điểm mới của Đảng về xử lý kỷ luật, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp cao, về giáo dục đạo đức, lương tâm, danh dự, liêm sỉ trong Đảng, kèm theo những chế tài thực hiện. Phải khẳng định toàn Đảng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh như một nhu cầu văn hóa trong Đảng, nêu gương và làm gương trong xã hội. Xây dựng Đảng không dừng lại ở chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức mà phải đầy đủ và triệt để hơn, đó là xây dựng Đảng về văn hóa, thực hành chỉ dẫn của Hồ Chí Minh “Đảng là đạo đức, là văn minh”.

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải được cụ thể hóa bởi còn nhiều vấn đề chưa thật rõ ràng. Sao cho tránh được dân chủ hình thức, tập trung quan liêu và tự do vô chính phủ. Quy định chế độ trách nhiệm rõ ràng của các cấp ủy, của người đứng đầu, ngăn chặn sự lộng quyền, lạm quyền, người đứng đầu phải chịu ràng buộc trách nhiệm sao cho không để xảy ra tình trạng một người, người đứng đầu – bí thư cấp ủy có thể vô hiệu hóa, hình thức hóa cả một tập thể cơ quan lãnh đạo.

– Phải có Luật Dân tộc. Đây là vấn đề đặt ra từ lâu nhưng chưa được thực hiện. Việt Nam là một quốc gia có cơ cấu đa dân tộc, do đó cũng đa tôn giáo và đa văn hóa. Cần thiết phải ban hành và thực hiện Luật Dân tộc để củng cố cơ sở pháp lý của bình đẳng dân tộc, đại đoàn kết dân tộc, không chỉ giúp đỡ, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc mà phải xác lập quan hệ dân tộc trên các chuẩn mực tôn trọng tin cậy lẫn nhau. Cùng với Luật Dân tộc phải có các chính sách đặc thù với những dân tộc – tộc người đặc thù bảo đảm phát triển, nhất là giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người.

– Phải có Luật về Hội. Đây là xu hướng khách quan của đời sống xã hội dân sự. Như đã nói, một số Hội, đoàn thể có tham gia vào hệ thống chính trị, do đó phải làm rõ các tổ chức (trong đó có Hội) nào là tổ chức chính trị? Các tổ chức nào là tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức nào chỉ thuần túy là tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp và xã hội tự nguyện, thiện nguyện?

Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật là những tổ chức xã hội – nghề nghiệp của giới trí thức khoa học, của các văn nghệ sĩ, dù có tác dụng lớn trong đời sống chính trị nhưng không phải là thành viên của hệ thống chính trị.

– Phải nghiên cứu, xem xét về Luật Biểu tình. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu để giải quyết những xung đột trong quan hệ lợi ích, trong quan hệ lao động khi phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, kể cả phát triển kinh tế tư nhân. Luật này liên quan đến tổ chức, hoạt động công đoàn, đến quan hệ giữa người sử dụng lao động – người lao động, quyền của công dân, bảo đảm ổn định, trật tự, an ninh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mỗi người dân.

– Phải có Tòa án Hiến pháp. Đó là đòi hỏi tất yếu của dân chủ và nhà nước pháp quyền. Xác lập cơ chế bảo hiến nhưng thực hiện như thế nào và xét xử các hành vi vi hiến ra sao thì cần có thiết chế pháp lý, đó là Tòa án Hiến pháp. Cần thiết phải có luật, bổ sung vào hệ thống luật về Tòa án để việc lập ra và thực hiện hoạt động của Tòa án Hiến pháp có hiệu lực, hiệu quả. Việt Nam đã hội nhập, thể chế nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền, giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đối nội và đối ngoại không thể thiếu Tòa án Hiến pháp. Đó không chỉ là phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn là đòi hỏi của Việt Nam trong xu thế dân chủ hóa, xây dựng xã hội dân chủ và nhà nước pháp quyền.

– Phải thực hiện “Luật Trưng cầu dân ý” đã được Quốc hội thông qua. Luật đã ban hành nhưng chưa hoàn tất các thủ tục, trình tự pháp lý để thực hiện khi tình hình chính trị đòi hỏi. Một thành tựu to lớn mà Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta năm 1946 đã đạt được là ghi vào trong Hiến pháp một luận đề tư tưởng vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh “Mọi công việc trọng đại của quốc gia phải đưa ra cho toàn dân phúc quyết”. Nay đã có điều kiện để thực hiện, để hiện thực hóa tư tưởng dân chủ – pháp quyền đó. Cần chủ động sớm trước yêu cầu này và chuẩn bị tốt các điều kiện để thi hành.

– Cần tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội. Chuyển mạnh từ “Quốc hội tham luận” sang “Quốc hội tranh luận”, có nghĩa là, chú trọng chất lượng chất vấn của đại biểu quốc hội và trách nhiệm trả lời, giải trình của các bộ trưởng, của Chính phủ. Thực hiện chất vấn và giải trình công khai trong hoạt động của cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng (các kỳ họp Trung ương, các ủy viên Trung ương chất vấn Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư). Cũng như vậy, công khai kết quả đánh giá tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo cấp cao từ Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ.

– Cải cách hành chính, trong đó có thủ tục hành chính và cải cách tư pháp phải được đẩy mạnh, tạo lập một nền hành chính công minh bạch, thông suốt, phục vụ xã hội, công dân và doanh nghiệp.

Chống tham nhũng quyết liệt, không có vùng cấm, không có ngoại lệ không chỉ cần tăng cường vai trò, thẩm quyền của thanh tra (Chính phủ), kiểm tra (Đảng) mà còn cần đến hiệu lực của cơ quan tư pháp và kiểm soát hoạt động tư pháp, đảm bảo xét xử công khai, minh bạch, đúng người đúng tội. Muốn vậy, cải cách hành chính, cải cách tư pháp phải có những bước tiến đột phá.

(2) Vấn đề thứ hai, tổ chức sắp xếp lại hệ thống bộ máy từ Đảng đến Nhà nước và hệ thống đoàn thể, từ trung ương tới địa phương và cơ sở. Phải thực hiện cấu trúc lại, bảo đảm thực thi chức năng, nhiệm vụ rõ nhất, đúng nhất, tốt nhất chứ không phải sáp nhập, giải thể một cách cơ học.

Đảng không thiên về bộ máy mà chú trọng chất lượng chuyên gia để có thể tham mưu, tư vấn chiến lược, dự báo tình hình tốt nhất. Nhà nước giảm thiểu tầng nấc hành chính quan liêu, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Phải tổ chức chính quyền Nhà nước thực sự là hệ thống công quyền đáp ứng nhu cầu dịch vụ công cho xã hội, người dân và doanh nghiệp. Xây dựng bộ máy nhà nước đủ năng lực quản lý điều hành, quản trị và tăng cường chức năng xã hội của nhà nước. Quản lý nhà nước bằng luật và theo luật. Không can thiệp quá sâu vào quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Phân định rõ các cấp quản lý để trao nhiều hơn quyền tự chủ cho các cấp, ngành và chính quyền địa phương. Phân biệt rõ quản lý đô thị và quản lý nông thôn.

Các đoàn thể trong Mặt trận và trong hệ thống chính trị cùng với đội ngũ cán bộ tương ứng phải sắp xếp lại sao cho phản ánh đúng thực chất là làm công tác xã hội, dân vận, không phải và không thể như những “phiên bản” nhà nước (nhà nước hóa, hành chính hóa), không phải là công chức mà là những người hoạt động xã hội.

Phải hình thành những quy tắc, những chế độ, kể cả việc trả lương để không công chức hóa tất cả đội ngũ cán bộ theo kiểu nhà nước như hiện nay.

Phân biệt rõ cán bộ Đảng, đoàn thể với công chức nhà nước. Công chức chỉ là những người hoạt động trong các cơ quan công quyền, phải chuyên nghiệp và có chuyên môn cao.

Trong cải cách chế độ và chính sách phải giải quyết căn bản chính sách lương cho các loại cán bộ, vừa tạo động lực cho họ làm việc tận tụy, trách nhiệm, sáng tạo vừa tách khỏi sự lệ thuộc vào Nhà nước để làm công tác phản biện, giám sát, kiểm soát quyền lực thực chất chứ không hình thức. Tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân lực phải tương xứng, phải trọng dụng người tài, thu hút được nhiều nhân tài về các cơ quan Đảng, Nhà nước. Đề cao chế độ trách nhiệm, đạo đức cán bộ, kỷ luật công vụ, siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong tác nghiệp, trong chuyên môn và trong quan hệ với dân. Lưu ý những chỉ dẫn của Lê Nin và Hồ Chí Minh.

Lê Nin nhấn mạnh, “chọn đúng người, giao đúng việc, kiểm tra thường xuyên”. “Thảo luận thì chung, trách nhiệm thì riêng, riêng tới từng người một”. “Bộ máy phải phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ (lệ thuộc) bộ máy”.

Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải “thạo chính trị, giỏi chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, tận tụy mẫn cán, là đầy tớ, công bộc trung thành của nhân dân”.

Đảng ta trong các nghị quyết về cải cách tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng cán bộ đặc biệt lưu ý tới tính trong sạch và sức hoạt động của bộ máy, của thể chế, tính liêm khiết, liêm chính của cán bộ, sao cho không tham nhũng, không thể tham nhũng bằng sức mạnh của quản lý và kiểm soát.

Bố trí cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ năng lực, ngăn chặn tình trạng chạy chức chạy quyền, dùng tiền bạc, vật chất thao túng quyền lực. Sàng lọc nghiêm ngặt cán bộ, kỷ luật nghiêm khắc và nghiêm minh, đủ sức cảnh báo, răn đe.

Riêng với công an quân đội, có hệ thống cơ chế, chính sách đặc thù trong việc tiến hành cải cách tổ chức và chỉnh đốn nhân sự, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo.

(3) Vấn đề thứ ba, quản lý xã hội

Thể chế quản lý xã hội trong nền kinh tế thị trường và hội nhập phải chú trọng trên ba bình diện, xây dựng cơ cấu xã hội mới phù hợp với cơ cấu kinh tế đang chuyển đổi, xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, không vì tăng trưởng, phát triển kinh tế bất kỳ mà làm tổn thương về mặt xã hội, nhất là đạo đức đồng thời giải quyết các chính sách xã hội, trong đó có an sinh xã hội.

Các vấn đề xã hội phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp, một mặt từ những hệ quả, hệ lụy xã hội mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa, mặt khác, tự nảy sinh trong quá trình biến đổi xã hội. Hàng loạt các tình huống phải giải quyết thông qua thể chế, chính sách và cơ chế. Thất nghiệp, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, mất an toàn thực phẩm và thuốc chữa bệnh, bạo lực gia đình, bao lực học đường, đạo đức suy đồi, những phát triển lệch lạc về giới tính, lối sống… Phần lớn do tình trạng thương mại hóa xâm nhập dữ dội từ lâu vào giáo dục y tế mà không được ngăn chặn.

Do đó, thể chế chính trị thông qua chính sách phải trực tiếp làm lành mạnh hóa xã hội, quan tâm đúng mức quản lý xã hội chứ không chỉ quản lý kinh tế.

Những nguyên tắc trong thể chế quản lý xã hội phải rõ và thực hiện nhất quán: hướng tới phục vụ tốt nhất cuộc sống của người dân. Người dân phải được thụ hưởng lợi ích công bằng. Người dân phải được bảo đảm an toàn trong cuộc sống, trong lao động và trong phát triển. Người dân phải được quan tâm, tạo điều kiện thực hiện vai trò chủ thể.

Để có dân chủ (quyền dân chủ, năng lực thực hành dân chủ) đối với người dân, phải bắt đầu từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền (nhân quyền và dân quyền) để đi tới dân chủ.

Đầu tư xây dựng cơ cấu xã hội rất đa dạng, phong phú bao gồm giai cấp, tầng lớp, nhóm. Chú trọng phát triển cân đối cả số lượng và chất lượng trong giai cấp công nhân, nhất là công nhân trí thức trẻ, hiện đại. Xây dựng giai cấp nông dân mới mang hình tượng mới, khác căn bản với nông dân truyền thống trước đây – nông dân có học vấn, học thức, có đầu óc sản xuất – kinh doanh lớn, làm chủ khoa học – công nghệ phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Chú trọng đặc biệt tới doanh nhân, không kỳ thị kinh tế tư nhân, có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp, Nhà nước, Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, doanh nhân.

Trí thức, nhân tài phải được trọng dụng trên quan điểm “quốc sách hàng đầu” đối với giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ. Tập trung nguồn lực và cải cách phương thức phân bổ nguồn lực để giáo dục và y tế được phát triển lành mạnh, khắc phục triệt để tình trạng thương mại hóa những lĩnh vực xã hội này để chấn hưng đạo đức nhà giáo, y đức, chấn hưng đạo đức xã hội.

Các vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, tôn giáo – tín ngưỡng – tâm linh và chính sách tôn giáo cũng là những cấu phần quan trọng trong hệ thống xã hội phải đổi mới từ nhận thức đến thể chế, chính sách.

Bằng cách đó, trên lĩnh vực quản lý xã hội, thể chế chính trị phải góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết và đồng thuận xã hội, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh cho sự phát triển cá nhân và cộng đồng, bắt đầu từ tế bào gia đình, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa và con người, ngăn chặn, đẩy lùi những suy thoái, phản phát triển.

Các vấn đề nêu trên cần bổ sung, phát triển trong thể chế chính trị nước ta, liên quan tới cả hệ thống từ luật pháp đến chính sách, từ cơ chế và chế tài, từ tổ chức bộ máy tới con người, từ nguồn nhân lực đến các nguồn lực vật chất – tinh thần khác… được huy động để giải quyết bài toán phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Trọng trách cao nhất là Đảng với sứ mệnh lãnh đạo quá trình xây dựng thể chế chính trị, trong thể chế đó, Đảng là hạt nhân, quyết định. Nhà nước là giường cột của chế độ, của thể chế phải tỏ rõ năng lực quản lý điều hành và nhân dân là chủ thể quyền lực, tham gia trực tiếp và phát huy vai trò sáng tạo trong xây dựng thể chế, trong đổi mới.

Xét về mặt quan hệ, thể chế chính trị Việt Nam với những vấn đề cần bổ sung, phát triển nêu trên là thực hiện mối quan hệ giữa các chủ thể: Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý -Nhân dân làm chủ6, hướng vào mục tiêu phát triển “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Chú thích:
1,2. Hoàng Chí Bảo. Từ thực tiễn đổi mới đến nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1986 – 2011)NXB Chính trị quốc gia, H.2012.

3,4,5. Hoàng Chí Bảo (chủ biên). Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nayNXB Chính trị Quốc gia, H.2006.
6. Ban Chỉ đạo tổng kết Trung ương Đảng. Một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016). NXB Chính trị Quốc gia, H.2015.
GS.TS. Hoàng Chí Bảo
Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương