Phát huy giá trị của luật tục trong xây dựng và thực hiện pháp luật ở Tây Nguyên

(Quanlynhanuoc.vn) – Đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Nguyên là một bộ phận cấu thành của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Luật tục các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên có sức sống mãnh liệt, là nền tảng chi phối cuộc sống của từng thành viên và của cả cộng đồng. Hiện nay, sự kết hợp giữa luật tục và pháp luật là một tất yếu khách quan trong việc quản lý xã hội.

 

Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ở Tây Nguyên
  Những điểm tương đồng giữa pháp luật và luật tục

Là vùng đất rộng lớn với diện tích tự nhiên gần 55 nghìn km2, Tây Nguyên là ngôi nhà chung của hơn 5 triệu người, trong đó có 1,6 triệu đồng bào của 47 dân tộc anh em cùng sinh sống1. Chính vì thế, luật tục có vai trò to lớn trong việc quản lý xã hội. Theo Từ điển Luật học: “Luật tục là những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây dựng nên và được truyền từ đời này qua đời khác”2.

Giữa pháp luật và luật tục có nhiều điểm tương đồng, như: pháp luật và luật tục đều là những phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội; cả hai đều tác động vào nhận thức của chủ thể nhằm hình thành ở chủ thể ý thức lựa chọn, cách thức xử sự phù hợp theo yêu cầu của Nhà nước hay của cộng đồng dân tộc mình. Đồng thời, pháp luật và luật tục đều là hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết định. Pháp luật và luật tục vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội.

Như vậy, giữa luật tục và pháp luật có mối quan hệ biện chứng, trong đó pháp luật giữ vai trò quyết định đối với luật tục và luật tục có sự tác động trở lại đối với pháp luật.

 Những tác động có tính quyết định của pháp luật đến sự tồn tại, phát triển và thực hiện luật tục ở Tây Nguyên

Một là, pháp luật thừa nhận, củng cố, bảo vệ và định hướng phát huy những quy định tiến bộ của luật tục. Do pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành nên có tác động mạnh mẽ tới luật tục. Khi pháp luật được xây dựng trên nền tảng những quy định tiến bộ của luật tục, đó là sự thừa nhận của Nhà nước đối với các quy định này. Nhờ đó, luật tục được tôn trọng, được bảo vệ, phát huy bằng các biện pháp của Nhà nước.

Hai là, pháp luật có thể loại trừ những quy định lạc hậu của luật tục. Luật tục thường bám rễ sâu trong tiềm thức của cộng đồng, nó trở thành thói quen trong ứng xử hằng ngày của từng thành viên trong cộng đồng. Có những quy định lạc hậu của luật tục tồn tại kìm hãm cuộc sống của con người hàng trăm năm nay mà chỉ bằng các quy định cụ thể của pháp luật không cho phép hay cấm thực hiện thì mới dần loại bỏ được.

Ví dụ, những hủ tục lạc hậu như hủ tục “Dọ-tơm-amí” (mẹ chết, con bị chôn sống) của tộc người Bana và Jrai ở Tây Nguyên. Theo tục lệ này, nếu người mẹ chẳng may chết khi vượt cạn thì trẻ sơ sinh phải chết theo. Ngay cả những đứa trẻ đang trong giai đoạn bú sữa mà người mẹ qua đời thì cũng bị chôn sống cùng hoặc bỏ mặc giữa rừng. Đây là hủ tục truyền đời nên dù gia đình không muốn thì áp lực từ phía dân làng khiến cha và người thân của đứa bé cũng không dám đấu tranh bảo vệ con.

Tục bắt chồng của dân tộc Chu-ru (Ảnh: internet).

Ba là, pháp luật ngăn chặn việc hình thành những quy định của luật tục trái với pháp luật, trái với tiến bộ xã hội, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để hình thành những quy định tiến bộ của luật tục. Đồng bào DTTS thường sinh sống ở những buôn làng xa xôi, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, việc tiếp xúc với những thông tin tiến bộ, những quy định của pháp luật còn hạn chế. Những luật tục lạc hậu tồn tại trên cơ sở niềm tin vào thần linh, mê tín, dị đoan… nên khi Nhà nước quan tâm tới việc cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân sẽ góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn những phong tục, tập quán, quy định lạc hậu.

Bốn là, đồng bào DTTS đã biết vận dụng pháp luật kết hợp với luật tục để bảo vệ quyền, lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Biểu hiện rõ ràng là họ đã đưa những hành vi vi phạm pháp luật ra khởi kiện trước tòa án hoặc báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết.

 Những tác động của luật tục trong xây dựng và thực hiện pháp luật ở Tây Nguyên
(1) Những tác động tích cực.

Luật tục vừa mang một số yếu tố của luật pháp như: quy định các hành vi phạm tội, các tội phạm, bằng chứng, việc xét xử và hình phạt…, lại vừa mang tính chất của tục lệ, phong tục, như các quy ước, lời răn dạy, khuyên răn mang tính đạo đức… Như vậy, luật tục là hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức phát triển sơ khai của luật pháp. Trong mối quan hệ với pháp luật, giá trị của luật tục được thể hiện ở các phương diện như:

Thứ nhất, luật tục, trong những phạm vi nhất định và ở một số lĩnh vực nhất định có khả năng thay thế pháp luật. Thực tế, trình độ phát triển ở mỗi vùng, địa phương là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn…, do đó, không phải lúc nào, ở đâu pháp luật cũng có tác dụng điều chỉnh; đặc biệt, đối với vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa thì những quy định của pháp luật có tính khái quát cao trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với người dân. Trong khi đó, luật tục với những giá trị tích cực của nó lại có tác dụng thay thế cho pháp luật, đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể, nhất là trong việc tự quản ở cộng đồng các tộc người. Ví dụ: Điều 18 Luật tục M’nông quy định: “Rừng bị cháy mà không dập tắt, Người đó sẽ không có rừng, Người đó sẽ không có đất”…

Thứ hai, luật tục có vai trò bổ sung cho pháp luật trong những điều kiện nhất định. Pháp luật không thể dự liệu để điều chỉnh hết các mối quan hệ xã hội phát sinh, hay không thể cụ thể hóa được tất cả những trường hợp vi phạm trong cộng đồng các DTTS. Trong những trường hợp này, luật tục sẽ đóng vai trò bổ sung, thay thế cho pháp luật để điều chỉnh những mối quan hệ xã hội phát sinh.

Thứ ba, luật tục có tác dụng hỗ trợ cho pháp luật trong nhiều lĩnh vực. Giá trị hỗ trợ của luật tục đối với pháp luật được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, trong đó nổi bật nhất là hỗ trợ chi tiết hóa, cụ thể hóa pháp luật.

Thứ tư, nhiều quy định tiến bộ của luật tục được thể hiện rõ nét, tương đồng với những quy định trong hệ thống pháp luật hiện nay. Có thể thấy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, các quy định tiến bộ của luật tục được phản ánh tương đối đầy đủ. Trong lĩnh vực hình sự có những quy định về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, như: tội giết người, tội hiếp dâm; các tội về xâm phạm quyền sở hữu như: trộm cắp, chiếm đoạt tài sản và các tội về hôn nhân gia đình… Những quy định trong luật tục về các tội danh trên có giá trị tham khảo quan trọng, góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan.

Thực tế cho thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam đã và đang được xây dựng, hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa, truyền thống của mọi dân tộc trên lãnh thổ, trong đó có những quy định tốt đẹp trong luật tục của đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên. Ví dụ: điểm b khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm các hành vi “Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn”, còn luật tục Êđê cũng đề cao quyền quyết định của hai bên nam nữ trong hôn nhân: nêu rõ không được có sự ép buộc trong hôn nhân.

(2) Những tác động tiêu cực.

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, do có nhiều quy định khác nhau giữa pháp luật và luật tục nên trong các buôn làng, đồng bào DTTS vẫn còn duy trì cách hành xử theo luật tục lạc hậu, trái pháp luật. Điều này đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực và hiệu quả của pháp luật ở Tây Nguyên. Ví dụ: Điều 99, 100, 101 về tục “Juê nuê” trong hôn nhân của người Êđê (Juê nuê là luật tục cổ truyền trong hôn nhân của người Êđê). Tục này quy định khi chồng chết, người phụ nữ có quyền đòi hỏi nhà chồng phải thế một người em trai chồng để làm chồng và ngược lại.

Giải pháp phát huy giá trị của luật tục trong xây dựng và thực hiện pháp luật ở Tây Nguyên

Để hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những giá trị tích cực của luật tục trong xây dựng và thực hiện pháp luật ở Tây Nguyên, cần chú trọng những nội dung sau:

Một là, cần nhận thức đúng vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục. Pháp luật giữ vai trò quan trọng trong quản lý đời sống của đồng bào các DTTS, nhưng phải coi trọng luật tục của mỗi dân tộc. Đối với những quan hệ xã hội phát sinh mà chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh, cần vận dụng những phong tục, tập quán tốt đẹp được quy định trong luật tục để làm căn cứ điều chỉnh. Những văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật liên quan đến đời sống của đồng bào các DTTS phải được xây dựng phù hợp với các phong tục tập quán tốt đẹp của mỗi dân tộc; đặc biệt coi trọng việc giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp; đồng thời, bài trừ, ngăn chặn các quy định phản tiến bộ hình thành trong luật tục.

Hai là, phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của luật tục và pháp luật trong quá trình cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cần có những văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật thích hợp với luật tục để đồng bào DTTS ở Tây Nguyên áp dụng cùng với những giá trị tốt đẹp, tích cực trong luật tục; đồng thời, từng bước loại trừ những luật tục lạc hậu, phản tiến bộ đã duy trì lâu đời trong cuộc sống của đồng bào các DTTS. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng kết hợp hài hòa việc tuyên truyền những quy định mới, tiến bộ của pháp luật để hình thành những thói quen lành mạnh, tiến bộ mới thay thế cho thói quen cũ, lạc hậu do luật tục chi phối.

Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật cho đồng bào DTTS. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS – nơi mà sự hiểu biết pháp luật và trình độ dân trí của người dân còn thấp. Có nhiều hình thức thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật tới đồng bào DTTS. Trong đó, cách làm có hiệu quả là sử dụng chính lực lượng cán bộ, công chức là người DTTS trong các cơ quan, tổ chức đoàn thể tại địa phương. Họ nắm rõ và hiểu được những phong tục, tập quán, lối sống của chính dân tộc mình. Mặt khác, do được tham gia vào hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương nên họ cũng là người hiểu biết về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Như vậy, việc họ tuyên truyền phổ biến pháp luật tới người dân ở chính nơi họ sinh sống sẽ có sức thuyết phục cao.

Bốn là, tăng cường kết hợp luật tục và pháp luật trong công tác tự quản của buôn làng DTTS ở Tây Nguyên. Luật tục và pháp luật đều là những công cụ điều chỉnh xã hội xuất hiện do nhu cầu tổ chức quản lý những hoạt động chung của con người. Do vậy, chúng có những chức năng tương tự nhau, đều là những công cụ điều chỉnh và luôn hỗ trợ lẫn nhau trong việc phục vụ mục đích chung của cộng đồng. Tuy nhiên, vai trò của luật tục đối với cộng đồng tộc người này dù lớn đến đâu cũng không thể vượt qua vai trò chủ đạo của pháp luật. Vì vậy, xét đến cùng, việc kết hợp hài hòa pháp luật với luật tục trong quản lý xã hội cũng chính là việc thừa nhận của pháp luật đối với những yếu tố tiến bộ, tích cực của luật tục, góp phần hỗ trợ, đưa pháp luật vào cuộc sống thường nhật của đồng bào DTTS ở Tây Nguyên một cách hiệu quả nhất.

Năm là, nâng cao vai trò của người đứng đầu cộng đồng DTTS trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật kết hợp với luật tục ở Tây Nguyên. Trong xã hội truyền thống các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên, già làng có vai trò trung tâm và là linh hồn của cộng đồng, như người chỉ huy của buôn làng, là người có vị trí trọng yếu nhất trong duy trì trật tự cộng đồng. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp đào tạo họ trở thành những hạt nhân tích cực trong việc phát huy hiệu quả kết hợp pháp luật và luật tục để đạt được mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội ở vùng đồng bào các DTTS Tây Nguyên.

Sáu là, cần vận dụng các yếu tố tích cực của luật tục trong công tác hòa giải ở các buôn làng. Luật tục Tây Nguyên rất đề cao và coi trọng việc hòa giải trong cộng đồng, có rất nhiều quy định về việc hòa giải. Theo đó, một khi sự việc đã được hòa giải xong thì các bên liên quan không được khơi lại và hoàn toàn không còn hiềm khích với nhau nữa. Đây là những quy định tiến bộ của luật tục, cần được đặc biệt coi trọng và phát huy cùng với vai trò của các già làng trong công tác hòa giải tại buôn làng.

Bảy là, cần xây dựng hương ước trong các buôn làng phù hợp với pháp luật và những giá trị tích cực của luật tục. Cùng là quy phạm xã hội nên hương ước rất gần với luật tục, vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng hương ước là luật tục thành văn. Đây là điều kiện thuận lợi để kết hợp, đưa luật tục vào hương ước, làm công cụ chính thức để cùng với pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên.

Tám là, tổ chức tốt hoạt động trợ giúp pháp lý cho đồng bào DTTS ở Tây Nguyên. Hoạt động trợ giúp pháp lý là một trong những khâu hỗ trợ đắc lực cho tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống đồng bào DTTS ở Tây Nguyên có hiệu quả. Hoạt động trợ giúp pháp lý giúp đồng bào DTTS hiểu được pháp luật để bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính đáng của mình; đồng thời giúp họ so sánh luật tục với pháp luật để loại bỏ các quy định lạc hậu của luật tục.

Chín là, chú trọng phát triển kinh tế – xã hội, tạo môi trường tốt để thúc đẩy thực hiện pháp luật trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên.

Chú thích:
1. Để Tây Nguyên giàu và mạnh, như ước mong của Người. https://nhandan.com.vn, ngày 02/9/2019.
2. Từ điển Luật học. H. NXB Tư pháp, 2006.

ThS. Nguyễn Văn Thọ
Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk