Một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số

(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo đảm an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp cơ bản để giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống của Nhân dân và góp phần ổn định chính trị xã hội. Những năm qua, hệ thống chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số đã được ban hành khá đầy đủ và toàn diện, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số vẫn còn những bất cập, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các chính sách, giảm mức độ tiếp cận và thụ hưởng an sinh xã hội của các dân tộc thiểu số.

 

Ảnh minh họa.
Thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Theo kết quả sơ bộ Tổng Điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019 của Tổng cục Thống kê, Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm 85,3% dân số, 53 dân tộc thiểu số (DTTS) còn lại chiếm 14,7% dân số. Những năm qua, vấn đề bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) cho đồng bào DTTS luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhiều chính sách và nguồn lực ưu tiên phát triển toàn diện kinh tế – xã hội, cơ sở hạ tầng, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và bảo đảm ASXH đối với đồng bào DTTS đã được ban hành. Theo đó, đã bao quát toàn diện các lĩnh vực ASXH, như: hỗ trợ việc làm và giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội (TGXH); bảo đảm tiếp cận ở mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin), trên cơ sở đó, tạo chuyển biến tích cực đối với đời sống của đồng bào DTTS.

Số liệu thống kê cho thấy, tính đến tháng 7/2019, Quốc hội đã ban hành 108 luật, hơn 30 nghị quyết có nội dung chính sách liên quan đến lĩnh vực DTTS, miền núi và vùng đặc biệt khó khăn, bao quát các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, lao động và việc làm, văn hóa, thông tin, giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, y tế, bảo vệ môi trường, công tác cán bộ… Hệ thống chính sách dân tộc do Chính phủ và các bộ, ngành xây dựng là 118 văn bản, trong đó có 54 đề án, chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội vùng DTTS và miền núi1.

Các chính sách ASXH đã từ tập trung hỗ trợ trực tiếp (như chính sách trợ cước, trợ giá và cấp không thu tiền một số mặt hàng thiết yếu cho người dân vùng dân tộc và miền núi) chuyển sang vừa đầu tư phát triển vừa hỗ trợ trực tiếp cho người dân (hỗ trợ phát triển sản xuất, đời sống văn hóa của người dân, đào tạo cán bộ cơ sở, giảm nghèo, y tế, giáo dục, đào tạo nghề…). Cụ thể:

Thứ nhất, các chính sách tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đã hỗ trợ người dân nâng cao cơ hội tìm việc làm, tham gia thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu việc làm theo hướng đa dạng hóa sinh kế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống, góp phần ổn định xã hội. Theo đó, nhiều chính sách ưu đãi, hướng tới mục tiêu giải quyết việc làm cho thanh niên, sinh viên người DTTS đã được ban hành (hiện có 116 chính sách khác nhau, trong đó có 7 chính sách hỗ trợ thanh niên dân tộc miền núi học nghề và nâng cao trình độ đào tạo từ bồi dưỡng đến sơ cấp, trung cấp). Đặc biệt, gần đây, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tăng cường các giải pháp để liên kết, kết nối các trường nghề của các tỉnh miền núi với các doanh nghiệp, góp phần tạo việc làm hiệu quả cho thanh niên DTTS…

Số liệu thống kê cho thấy, giai đoạn 2016 – 2018, đã có khoảng 480.000 người DTTS được học nghề, trong đó 130.000 người học trung cấp, cao đẳng; 350.000 người được hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng theo chính sách của Đề án 1956. Ngoài ra, nhiều chính sách hỗ trợ cho thanh niên DTTS đi xuất khẩu lao động, như hỗ trợ toàn bộ phần đào tạo, hỗ trợ di chuyển và chính sách hỗ trợ ban đầu… đã được thực hiện. Từ năm 2018 – 2019, đã đưa được 613 thanh niên DTTS đi làm việc ở nước ngoài2.

Để góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS, chương trình tín dụng chính sách dành riêng cho đồng bào DTTS đã được ban hành, giúp đồng bào cải thiện cuộc sống, hội nhập với xu hướng phát triển chung của cả nước. Theo Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), nguồn vốn dành riêng cho hộ đồng bào DTTS có sự tăng trưởng đồng đều qua các năm. Năm 2014 mới chỉ có 0,52%, sang năm 2015 đã đạt tới 1,5% trong tổng nguồn vốn của NHCSXH và năm 2016 là 1,36%. Nguồn vốn tín dụng chính sách đối với đồng bào DTTS đã đầu tư cho gần 100% hộ tại các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, tại vùng sâu, vùng xa.

Tính đến ngày 31/8/2019, có hơn 1,4 triệu khách hàng là hộ đồng bào DTTS đang thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng tại NHCSXH. Nguồn vốn tín dụng chính sách đã góp phần giúp hơn 2 triệu hộ DTTS thoát nghèo, thu hút và tạo việc làm cho 162 nghìn lao động, 211 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn là con em hộ DTTS được vay vốn học tập; xây dựng 1,3 triệu công trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn; xây dựng hơn 215 nghìn căn nhà…3.

Ngoài ra, các chính sách như hỗ trợ phát triển sản xuất đã giúp đồng bào DTTS từng bước bỏ tập quán sản xuất nương rẫy, phụ thuộc vào tự nhiên chuyển sang tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững. Chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng, như các công trình đường giao thông đã tạo điều kiện cho người dân đi lại thuận lợi, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội. Hệ thống thủy lợi được hoàn thiện đã nâng cao năng lực tưới tiêu, mở rộng diện tích đất sản xuất, giúp người dân ổn định lương thực. Các công trình nước sinh hoạt, điện, trạm y tế xã, trường lớp học được đầu tư xây dựng kiên cố, đồng bộ ở các xã, thôn bản giúp người dân cải thiện đời sống sinh hoạt hằng ngày…

Nhờ sự thực hiện đồng bộ các chính sách ASXH trên mà nếu như năm 2016, trên 70% người nghèo là người DTTS (trong khi người DTTS chỉ chiếm hơn 14% tổng dân số cả nước) thì đến năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo DTTS được cải thiện hơn, ở mức 52,7% số hộ nghèo của cả nước. Báo cáo của Chính phủ về “việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng DTTS, miền núi giai đoạn 2012 – 2018” cho thấy, trong giai đoạn này, lĩnh vực giảm nghèo nói chung, giảm nghèo vùng DTTS, miền núi nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, là một trong những điểm sáng trong hệ thống các chính sách ASXH, tạo ra sự thay đổi nhanh và cơ bản diện mạo của nông thôn vùng DTTS, miền núi.

Các chính sách đầu tư phát triển kinh tế – xã hội đã tạo sự chuyển biến rõ nét về kết cấu hạ tầng, khoảng 25.000 công trình hạ tầng được xây dựng trên địa bàn các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng DTTS, miền núi. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, nhất là hộ DTTS giảm nhanh theo từng giai đoạn (giảm trung bình khoảng 3,5%/năm)…4.

Thứ hai, chính sách TGXH được thực hiện nhằm bảo đảm thu nhập và các điều kiện sinh sống ở mức tối thiểu cho đồng bào DTTS gặp rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi trong cuộc sống. Công tác cứu trợ đột xuất đối với đồng bào DTTS đã được triển khai tương đối kịp thời, góp phần tạm thời ổn định cuộc sống của đối tượng bị rủi ro.

Thực hiện chính sách TGXH, đến cuối năm 2019, cả nước đã có trên 3 triệu đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, được hỗ trợ kinh phí chăm sóc và cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), trong đó có nhiều người DTTS; 48.423 đối tượng đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tại 432 cơ sở TGXH (trong đó có 182 cơ sở công lập). Kinh phí thực hiện thường TGXH thường xuyên hằng năm là 17.563 tỷ đồng. Giai đoạn 2015 – 2020, trung ương đã hỗ trợ địa phương 313.297 tấn gạo và 2.269 tỷ đồng để cứu trợ đột xuất. Các địa phương cũng đã tổ chức huy động ngân sách địa phương, cộng đồng và các nhà hảo tâm hỗ trợ cho các đối tượng hàng ngàn tỷ đồng 5.

Thứ ba, các chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản được chú trọng thực hiện. Về giáo dục, mạng lưới trường lớp từ mầm non đến trung học phổ thông ở vùng DTTS và miền núi ngày càng được củng cố và phát triển. Các thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới đã có lớp mầm non, tiểu học; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm cụm xã, các huyện đều có trường trung học phổ thông. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) và trường dự bị đại học ngày càng phát huy vai trò tích cực, cơ bản đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn cán bộ người DTTS cho các địa phương vùng DTTS, vùng miền núi.

Hiện nay, toàn quốc có tổng số 316 trường PTDTNT ở 49 tỉnh/thành phố với tổng số 109.245 học sinh nội trú. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS của các trường PTDTNT hằng năm trên 97%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 90%. Trong số 6.000 học sinh các trường PTDTNT tốt nghiệp THPT hằng năm, có trên 50% học sinh thi đỗ thẳng vào đại học, cao đẳng, 5% được đi học cử tuyển, 13% vào dự bị đại học, khoảng 30% vào trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và về địa phương tham gia công tác, lao động sản xuất.

Bên cạnh đó, toàn quốc hiện có 1.097 trường PTDTBT ở 28 tỉnh, thành phố (trong đó có 15% trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia) với quy mô 185.671 học sinh bán trú. Tỷ lệ học sinh bán trú cấp tiểu học hoàn thành cấp học đạt 98,9%, học sinh bán trú cấp THCS hoàn thành cấp học đạt 92%. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên rõ rệt, học sinh bỏ học giảm, góp phần quan trọng trong việc củng cố, duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS; nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng DTTS, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới và hải đảo6.

Cùng với giáo dục, việc tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở vùng DTTS và miền núi cũng được đặc biệt quan tâm. Thành công nhất trong chính sách bảo đảm y tế cho đồng bào DTTS là việc cung cấp rộng rãi BHYT cho người dân, gần như 100% người nghèo, người DTTS đã được cấp thẻ BHYT. Mạng lưới cơ sở y tế ngày càng phát triển, chất lượng khám, chữa bệnh ngày càng tăng. Báo cáo tổng kết 9 năm thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh của Ủy ban Dân tộc cho thấy, thời gian qua, chính sách y tế chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS luôn được thực hiện theo hướng: ưu tiên giải quyết các vấn đề sức khỏe; tăng cường khả năng tiếp cận cũng như cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng; giảm gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe.

Trong đó, Nhà nước đã ưu tiên bố trí ngân sách thực hiện chương trình mục tiêu, các chương trình, dự án để đầu tư xây dựng, nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh, trang thiết bị y tế, nhất là đầu tư cho bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã. Theo đó, đã có 87 trạm y tế từ Dự án hỗ trợ ngành Y tế của EU giai đoạn 1; 288 trạm y tế từ Dự án hỗ trợ ngành Y tế của EU giai đoạn 2. Tỷ lệ người DTTS có thẻ BHYT trong những năm qua liên tục gia tăng, năm 2016 có 91% đồng bào dân tộc có thẻ BHYT; năm 2017 đạt 92,05% và năm 2018 là 93,68%7.

Bên cạnh đó, nhiều chính sách như hỗ trợ nhà ở, chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được thực hiện đã góp phần cải thiện điều kiện sống, nâng cao nhận thức của người dân nông thôn nói chung và DTTS nói riêng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Đồng bào DTTS được thông tin kịp thời về các chính sách của Đảng và Nhà nước; nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, rút ngắn khoảng cách về thông tin giữa các vùng, miền…

Những bất cập cần khắc phục

Mặc dù  Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đối với vùng đồng bào DTTS nhưng hiện nay, vùng DTTS vẫn đang là “lõi nghèo” của cả nước, còn tới trên 20.000 thôn đặc biệt khó khăn, tồn tại “5 nhất” so với cả nước, đó là: vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nhất; chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất; kinh tế – xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất; tỷ lệ người nghèo cao nhất. Mức thu nhập bình quân của người DTTS so với mặt bằng chung cả nước chưa được thu hẹp, chỉ bằng khoảng 30% so với bình quân chung cả nước. Dân số DTTS chiếm 14,6% dân số nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm trên 52% tổng số hộ nghèo của cả nước. Chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp: 21% người DTTS trên 15 tuổi chưa đọc thông viết thạo tiếng Việt. Vẫn còn hơn 54.000 hộ thiếu đất sản xuất, hơn 58.000 hộ thiếu đất ở, hơn 223.000 hộ thiếu nước sinh hoạt8.

Số lao động người DTTS được đào tạo nghề còn thấp, chỉ chiếm 14% trong tổng số người DTTS trong độ tuổi lao động, chủ yếu học nghề ngắn hạn. Tình trạng thiếu việc làm của thanh niên DTTS đang là vấn đề bức thiết, tỷ lệ thất nghiệp 5,76%, cao gấp 2,5 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của cả nước (2,34%). Chính sách về việc làm đối với vùng DTTS thiếu đồng bộ, thường lồng ghép chung với chính sách giảm nghèo và dạy nghề; trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp… cũng như phong tục, tập quán của đồng bào DTTS còn hạn chế nên khó tiếp cận các dịch vụ việc làm, nhất là đi làm việc ở nước ngoài9.

Bên cạnh đó, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe và BHYT cho đồng bào DTTS tại các địa phương vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Thực tế, tỷ lệ bác sỹ/10.000 dân còn thấp, thiếu cán bộ y tế có chuyên môn sâu, cán bộ người địa phương; cơ sở vật chất y tế ở vùng DTTS, miền núi còn thiếu, chưa đồng bộ. Mặc dù kết quả cấp thẻ BHYT miễn phí đạt tỷ lệ cao, nhưng số lượt người khám, chữa bệnh và chất lượng khám, chữa bệnh bằng BHYT ở cơ sở đạt thấp, nhất là ở vùng DTTS và miền núi chưa thật sự hiệu quả10.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống chính sách phát triển kinh tế – xã hội dành cho vùng DTTS và miền núi chưa thực sự đồng bộ, chưa bảo đảm gắn kết thống nhất. Hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ, giải quyết tình thế, chưa phải là đầu tư phát triển để khai thác các thế mạnh vùng DTTS, miền núi. Hơn nữa, chưa có chính sách khuyến khích đồng bào DTTS vươn lên thoát nghèo bền vững, một số chính sách thiết kế chưa phù hợp với thực tế nên không đạt mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, việc xây dựng các chính sách còn mang tính nhiệm kỳ, ngắn hạn, đề ra mục tiêu lớn nhưng thời gian và nguồn lực thực hiện không tương xứng, bố trí dàn trải, chưa chủ động, chưa bảo đảm cho các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt…

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện chính sách còn có một số sai phạm, như thực thi chính sách không minh bạch, công tác điều tra, rà soát, tổng hợp đối tượng thụ hưởng chính sách thiếu chính xác…

Một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số

Thứ nhất, để tiếp tục thực hiện tốt chính sách ASXH đối với vùng DTTS, ngày 18/11/2019, Quốc hội đã phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, theo đó, đặt ra mục tiêu tổng quát: đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo đảm ASXH; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước của vùng đồng bào DTTS.

Đến năm 2025: phấn đấu mức thu nhập bình quân của người DTTS tăng trên 2 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS mỗi năm giảm trên 3%; 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 99% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 90% đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% đồng bào DTTS được xem truyền hình và nghe đài phát thanh. Tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường trên 98%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học trên 97%, THCS trên 95%, THPT trên 60%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông trên 90%. Tăng cường công tác y tế để đồng bào DTTS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; 98% đồng bào DTTS tham gia BHYT; 50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người DTTS.

Định hướng mục tiêu đến năm 2030: thu nhập bình quân của người DTTS bằng 1/2 bình quân chung của cả nước. Giảm hộ nghèo xuống dưới 10%. Cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn. Đến 2030 có 40% lao động người DTTS biết làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Phấn đấu có 80% số hộ nông dân người DTTS làm kinh tế nông – lâm nghiệp hàng hóa. Trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đời sống của người dân. Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong Mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững đến năm 2030.

Để bảo đảm thực hiện các mục tiêu trên, bảo đảm thực hiện chính sách ASXH bền vững đối với đồng bào DTTS, trước hết, cần tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ các chính sách hỗ trợ trực tiếp mang tính chất “cho không” sang chính sách tạo cơ hội cho đồng bào DTTS tự vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống. Trong đó, cần ưu tiên theo các lĩnh vực: đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, sử dụng cán bộ DTTS, giảm nghèo tiếp cận đa chiều và giảm nghèo bền vững. Các chính sách cần chú trọng hơn trong việc đầu tư phát triển để khai thác các thế mạnh vùng DTTS, miền núi.

Thứ hai, gắn kết hệ thống các chính sách, chương trình ASXH thành một thể thống nhất, minh bạch, tránh chồng chéo, phân tán, kém hiệu quả. Hiện nay, có nhiều chương trình, hoạt động ASXH của các cấp từ Trung ương đến địa phương, do nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức, bao gồm cả các tổ chức nước ngoài, tổ chức phi chính phủ, dẫn tới chồng chéo, trùng lặp, kém hiệu quả. Cần thiết kế lại tổng thể chương trình sao cho đơn giản, minh bạch, dễ thực hiện và dễ quản lý, trong đó chú trọng các chương trình về việc làm, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho đồng bào DTTS.

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các chính sách về đào tạo nghề và giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đối với lao động DTTS, thanh niên DTTS sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đối với vùng đồng bào DTTS và miền núi. Nâng cao chất lượng, mở rộng, đổi mới phương thức và mô hình hoạt động của trường PTDTNT, bán trú. Có cơ chế chăm lo đời sống cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Thực hiện các giải pháp đồng bộ, tạo điều kiện cho đồng bào DTTS tiếp cận dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh ở tuyến trung ương thông qua chính sách BHYT. Xây dựng và thực hiện chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, nâng cao sức khỏe, tầm vóc thanh, thiếu niên DTTS. Tập trung chỉ đạo, giải quyết những khó khăn trong vùng đồng bào DTTS, miền núi hiện nay như: tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt để đồng bào ổn định cuộc sống; tập trung chỉ đạo các địa phương thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh kế ổn định cho đồng bào vùng DTTS, miền núi. Kết nối tiêu thụ hàng hóa giữa vùng DTTS, miền núi với thị trường trong nước và quốc tế; đồng thời, chú trọng xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần cho đồng bào DTTS.

Thứ tư, bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách ASXH phù hợp, tránh dàn trải. Các chính sách cần bảo đảm tính liên kết, liên thông tốt, như chính sách tín dụng gắn với tạo việc làm, dạy nghề gắn với nhu cầu việc làm… Tăng cường thực hiện cơ chế xã hội hóa và sự đóng góp nguồn lực của các tổ chức, doanh nghiệp, qua đó huy động cao nhất các nguồn lực cho giảm nghèo, ASXH tại vùng đồng bào DTTS.

Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách đối với đồng bào DTTS. Xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân có liên quan đến những sai phạm, lợi dụng chính sách, kể cả việc thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo thực hiện chính sách.

Chú thích:
1. Công tác xây dựng, thực thi pháp luật về dân tộc thiểu số, miền núi tại Tây Nguyên. http://noichinh.vn, ngày 27/01/2020.
2. Chương trình giảm nghèo cho đồng bào dân tộc cần gắn với đào tạo nghề. https://vietnamnet.vn, ngày 01/11/2019.
3. Báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội tại hội thảo khoa học “Đánh giá hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại Việt Nam”, ngày 25/9/2019.
4. Giải pháp nào để giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số. http://danvan.vn, ngày 07/6/2019.
5. Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. http://baochinhphu.vn, ngày 20/02/2020.
6. Thực hiện chính sách xã hội thúc đẩy phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi. https://moet.gov.vn, ngày 09/10/2019.
7. Bảo đảm quyền lợi bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số. https://nhandan.org.vn, ngày 25/02/2019.
8. Góc nhìn đại biểu: Thúc đẩy phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số. http://quochoi.vn, ngày 27/12/2019.
9. Chương trình giảm nghèo cho đồng bào dân tộc cần gắn với đào tạo nghề. https://vietnamnet.vn, ngày 01/11/2019.
10. Bảo đảm quyền lợi bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số. https://nhandan.org.vn, ngày 25/02/2019.
ThS. Nguyễn Thị Kim Oanh
Học viện Ngân hàng