Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam  

(Quanlynhanuoc.vn) – Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại, một trong những trang sử vàng chói lọi nhất của lịch sử dân tộc ta. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập – lần đầu tiên, tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới. Bài viết khái quát thành quả to lớn của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

 

Ảnh minh họa 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại của Nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên độc lập, đồng thời mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia – dân tộc có độc lập, có chủ quyền. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Vì vậy, thành quả lớn nhất của của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự ra đời Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh – nhân tố quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời Nhà nước kiểu mới

Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện ở sự hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng trong suốt tiến trình cách mạng. Năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước, Người đã cùng Trung ương Đảng phát triển, bổ sung đường lối giải phóng dân tộc, một tư tưởng lớn đã được xác định từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (tháng 02/1930). Sự phát triển về đường lối được nêu bật tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Hội nghị đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới lợi ích và sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.

Đảng tập hợp, đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ đó xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng đã chú trọng phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ cách mạng, bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng. Đường lối lãnh đạo của Đảng tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ thể hóa tại Hội nghị Thường vụ Trung ương (tháng 02/1943), Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương: Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12/3/1945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào – Tuyên Quang (14/8 – 15/8/1945).

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phát triển lực lượng, chủ động nắm bắt thời cơ, dự đoán được tình hình, tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Nhân dân cả nước. Khi biết cao trào kháng Nhật cứu nước dấy lên thành cao trào trong cả nước và dự đoán phát xít Nhật sẽ hất cẳng thực dân Pháp khỏi Đông Dương để tranh giành quyền lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Thời điểm đó, Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng đã phân tích sâu sắc tình hình trong nước và chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định, lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.

Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ra Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Từ ngày 14/8 – 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào thông qua kế hoạch lãnh đạo Nhân dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.

Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào trong hai ngày 16/8 và 17/8/1945 đã tán thành lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong 10 chính sách lớn của Việt Minh, điểm mấu chốt đầu tiên xác định: “Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”. Với đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền thuộc về Nhân dân – Nhà nước kiểu mới đã ra đời.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – chính quyền thuộc về Nhân dân, thành quả nổi bật của Nhà nước kiểu mới

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm kiếm, lựa chọn một hình thức, chế độ nhà nước thích hợp, thúc đẩy dân tộc Việt Nam phát triển theo đúng quỹ đạo tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, lý luận cách mạng tiên tiến nhất của thời đại, được soi sáng bởi phương pháp luận biện chứng Mácxít. Trong quá trình khảo cứu, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước hiện thời: nhà nước dân chủ tư sản mà những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng Mười Nga 1917.

Hồ Chí Minh cho rằng, nhà nước tư sản ở Mỹ hay Pháp mặc dù đã xác lập được một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và nhân đạo, nhưng về thực chất vẫn là công cụ thống trị của một số người, vì lợi ích của thiểu số; đại bộ phận dân chúng vẫn bị bóc lột, nô dịch ở cả chính quốc và các nước thuộc địa. Tính chất phiến diện nửa vời, không triệt để của nhà nước dân chủ tư sản, ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những đối kháng không thể điều hòa và chắc chắn sẽ là nguyên nhân làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai.

Vì vậy, mục đích giải phóng và phát triển của xã hội Việt Nam không thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà nước đó. Đối lập với nhà nước tư sản là nhà nước Xô-viết còn non trẻ, nhưng đã bộc lộ sức sống và những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ quần chúng công – nông – binh, thật sự vì lợi ích của họ. Đây chính là mô hình nhà nước của chế độ xã hội mới mà cách mạng Việt Nam đi theo. Như vậy, bằng những khảo nghiệm thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, kiểu nhà nước theo học thuyết Mác – Lênin.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc chính quyền thuộc về Nhân dân chính là thành quả nổi bật của Nhà nước kiểu mới, với quan điểm: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do Nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân… Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của Nhân dân đối với đại biểu của mình”1.

Trong nhà nước kiểu mới, Nhân dân là người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Nhà nước phải có nghĩa vụ và trách nhiệm làm cho điều đó trở thành hiện thực. Người cho rằng: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân… làm cho mọi công dân Việt Nam thật sự tham gia vào công việc Nhà nước”2. Nhà nước vì dân là Nhà nước coi việc đem lại quyền lợi chính đáng cho Nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải hướng tới phục vụ Nhân dân.

Vì vậy, nội dung cơ bản và đặc biệt quan trọng của Nhà nước kiểu mới là thiết lập chính quyền nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cơ quan quyền lực nhà nước phải là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”3.

Có thể nói, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng điển hình về nghệ thuật tiến hành khởi nghĩa, giành chính quyền ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đồng thời là nghệ thuật khôn khéo, tinh tế của Hồ Chí Minh trong giữ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng của Nhà nước kiểu mới. Bản chất cách mạng và dân chủ của chính quyền nhân dân, nguồn gốc sức mạnh của chính quyền là ở sự gắn bó với Nhân dân, hết lòng, hết sức mưu cầu tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Đây là một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh và Đảng ta về mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chính quan điểm, tư tưởng này đã chỉ rõ sự đối lập về chất của nhà nước nhân dân với nhà nước phong kiến, nhà nước thực dân.

Nhà nước cách mạng kiểu mới – Nhà nước dân chủ, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà nước kiểu mới. Điểm nổi bật thể hiện bản chất nhà nước dân chủ kiểu mới đó là tất cả mọi quyền lực đều là của Nhân dân và nền tảng của Nhà nước ấy là lấy khối liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước… Nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do Nhân dân tổ chức ra, nhân viên nhà nước là người được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của Nhân dân, trở thành công bộc của Nhân dân.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực, Nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, Nhà nước không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời phong kiến, tư bản. Nhà nước dân chủ nhân dân do Nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Hồ Chí Minh cho rằng, tổng tuyển cử là một quyền chính trị mà Nhân dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân chủ của Nhân dân: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà.

Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử… Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân”4. Thông qua việc bầu Quốc hội và Chính phủ, Nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của Nhân dân không chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà còn ở quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân”5.

Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đề cao vai trò của Nhân dân, Người khẳng định: “Nếu không có Nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì Nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với Nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”6.

Trong việc xây dựng nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, cần coi trọng phát huy dân chủ để người dân tự lựa chọn bầu ra người đại biểu vào cơ quan chính quyền nhà nước. Để tổ chức nhà nước bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc…

Khi nói về ý nghĩa của Tổng tuyển cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà… Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”7. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là thắng lợi của tinh thần yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam, phấn đấu cho một quốc gia độc lập, thống nhất, vì cuộc sống hòa bình, tự do, hạnh phúc.

Đó là thắng lợi của chế độ mới, là bước đột phá về xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta và là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, của chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã chứng minh sự giác ngộ chính trị của các tầng lớp Nhân dân – lần đầu tiên thực hiện quyền làm chủ đất nước và xã hội qua lá phiếu bầu ra những đại biểu của mình. Chính quyền thuộc về Nhân dân – đây chính là điều khác biệt của Nhà nước kiểu mới so với nhà nước thực dân, phong kiến trước đây và các nhà nước tư sản hiện tại lúc bấy giờ.

Quản lý đất nước, xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước kiểu mới

Chỉ một ngày sau Lễ tuyên bố độc lập, ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”8. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật bởi vì pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội.

Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của chế độ ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo được ban hành đã khẳng định một cách dứt khoát: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1). Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng mới được xây dựng qua 14 tháng đã có được bản Hiến pháp do Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 09/11/1946, đó là hiện tượng đặc biệt của lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới.

Trong hoàn cảnh cách mạng nước ta “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, phải vượt qua bao khó khăn, thử thách, việc thông qua Hiến pháp càng có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn và pháp lý. Đó còn là thành quả to lớn của quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên các nguyên tắc: đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân. Bản Hiến pháp năm 1946 cũng xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân – là cơ sở pháp lý, có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước và xã hội. Mỗi công dân Việt Nam phải có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật. Hiến pháp xác định tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa. Công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật là vũ khí chính trị để Nhân dân chống lại các lực lượng thù địch, phản cách mạng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật còn là công cụ để cải tạo xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…, định hướng cho xã hội phát triển, đem lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Pháp luật là phương tiện mà thông qua đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thừa nhận Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước đó, ý chí của Nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và được thể hiện trong Hiến pháp. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai. Đây là một vấn đề quan trọng, cốt yếu không thể thiếu của nhà nước kiểu mới sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nhìn lại chặng đường 75 năm Cách mạng Tháng Tám thành công cùng với đổi mới hệ thống chính trị, Nhà nước ta tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, quyền làm chủ của Nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy. Hệ thống pháp luật được đổi mới, bổ sung và tăng cường, chất lượng các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được nâng cao; phương thức quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước sâu sát, thực tế hơn, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong xã hội. Các hoạt động của ngành Tư pháp, của Tòa án, Viện kiểm sát có nhiều tiến bộ… Việc đổi mới theo đúng định hướng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lành mạnh hóa các mặt văn hóa, xã hội, giữ vững sự ổn định lâu dài của đất nước.

Tuy nhiên, thời gian qua, trong quá trình xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân vẫn còn những bất cập cần tiếp tục giải quyết. Đó là hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất; tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước còn  bất cập; việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân còn có những mặt hạn chế; việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội còn chậm…

Chính vì vậy, để bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, xây dựng Nhà nước kiểu mới – Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong điều kiện hiện nay, cần đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tăng cường cải cách hành chính. Quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, nhất là về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là “công bộc” của Nhân dân.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước cần gắn chặt với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, nhất là trong bộ máy nhà nước, trong cán bộ, đảng viên nhằm củng cố niềm tin của Nhân dân vào Ðảng, Nhà nước và chế độ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cần tiếp tục xây dựng và triển khai các chủ trương, chính sách, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng cao, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây; quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội; xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm huy động sức mạnh của Nhân dân, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Chú thích:
1, 2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 375, 375.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 434.
4, 6, 7, 8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 133, 64, 153, 5. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 951.

TS. Bùi Quang Huy
Trường Sỹ quan Chính trị