Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy hành chính phù hợp với phân cấp, phân quyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm gần đây, chính sách về phân cấp, phân quyền trong tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đã có những bước tiến quan trọng. Trên cơ sở phân tích các quy định cũng như đánh giá tổng quan về tổ chức bộ máy hành chính phù hợp với nguyên tắc phân cấp, phân quyền ở nước ta thời gian qua, bài viết đề cập một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo nguyên tắc phân cấp, phân quyền, qua đó, góp phần thể chế hóa chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Ảnh minh họa
Thực trạng quy định về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước phù hợp với nguyên tắc phân cấp, phân quyền ở nước ta hiện nay

Trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi năm 2019) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (CQĐP) năm 2015 (sửa đổi năm 2019), vấn đề phân cấp, phân quyền (PCPQ) đã được đề cập và quy định rõ, cụ thể hơn. Đây là một bước tiến mới trong chính sách PCPQ ở nước ta. Với những đổi mới trong quy định về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước (HCNN) theo nguyên tắc PCPQ, có thể đánh giá tổng quan những kết quả đã đạt được và những hạn chế cần hoàn thiện như sau:

Về kết quả đạt được

Một là, quy định về tổ chức bộ máy HCNN thời gian qua đã có những bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, CQĐP nói riêng theo hướng PCPQ, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia.

Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định rõ thẩm quyền PCPQ của Chính phủ phải trên cơ sở các quy định của Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 25). Luật cũng bổ sung nhiều nội dung nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động và phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Chính phủ trong tình hình mới. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, như: Nghị định số 08/2012/NĐ-CP ngày 16/02/2012 và Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01/10/2016 nhằm cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết cho phù hợp với thực tiễn để nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, điều hành, hoạt động của Chính phủ.

Luật Tổ chức CQĐP xác định các đơn vị hành chính gồm có tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; xã, phường, thị trấn và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. So với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003, Luật Tổ chức CQĐP đã bổ sung thêm đơn vị hành chính là thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Đây là quy định nhằm cụ thể hóa Điều 110 Hiến pháp năm 2013.

Điều 4 Luật Tổ chức CQĐP quy định cấp CQĐP được tổ chức ở các đơn vị hành chính gồm có HĐND và UBND. CQĐP ở nông thôn (gồm CQĐP ở tỉnh, huyện, xã). CQĐP ở đô thị (gồm CQĐP ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn). Sau một thời gian dài thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 ngày 16/01/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Luật Tổ chức CQĐP đã quy định cấp CQĐP được tổ chức ở các đơn vị hành chính đều phải có HĐND và UBND.

Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức CQĐP so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đó là có sự phân biệt giữa CQĐP ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp với đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP ở các đơn vị hành chính theo hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp cơ sở mà không tính đến khả năng đáp ứng của từng cấp chính quyền; nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP ở nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; ở địa phương đô thị chú trọng thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực.

Hai là, các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục thể chế hóa rõ hơn vai trò, trách nhiệm tự quyết, tự chịu trách nhiệm của CQĐP.

Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận khả năng có thể tổ chức những mô hình CQĐP đa dạng, không đồng nhất; đồng thời, ghi nhận chính thức về PCPQ tại khoản 2 Điều 112.  Theo tinh thần của Hiến pháp, đã có nhiều đổi mới trong việc thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước tại các nghị quyết, nghị định, quyết định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các địa phương, các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đặc biệt, Chương trình tổng thể cải cách HCNN giai đoạn 2011 – 2020 đã quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của CQĐP và cán bộ, công chức theo hướng phát huy tự chịu trách nhiệm của CQĐP. Tác động của việc PCPQ trong chủ trương, đường lối, chính sách về tổ chức bộ máy đã làm cho hoạt động của CQĐP có nhiều thay đổi, bộ máy nhà nước ở địa phương đã hoạt động năng động, hiệu quả hơn.

Phân quyền cho địa phương là khái niệm lần đầu tiên được dùng một cách chính thức. Điều 12 Luật Tổ chức CQĐP quy định “Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền”. Các quy định hiện hành đã tạo cơ sở pháp lý giao cho các cấp chính quyền, các bộ phận trong bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện, giải quyết những công việc nhất định của Nhà nước và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới.

Ba là, pháp luật hiện hành đã quy định rõ hơn yêu cầu và điều kiện thực hiện PCPQ trong thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có tổ chức bộ máy giữa trung ương và địa phương cũng như giữa các cấp CQĐP.

Việc quy định sự phân định hợp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp CQĐP và trung ương tại Điều 13 Luật Tổ chức CQĐP đã góp phần giúp cho việc đánh giá tính hợp pháp, trách nhiệm và hiệu quả trên thực tế của mỗi địa phương được chính xác hơn.

Tuy nhiên, pháp luật cũng nhận định việc PCPQ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn, với đặc thù của ngành, lĩnh vực và đặc thù địa phương, bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt yêu cầu của tổ chức, công dân.

 Một số tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc PCPQ chưa đồng bộ, chưa có những cơ chế cụ thể, mới chỉ dừng lại ở những nguyên tắc, yêu cầu chung. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 khẳng định việc PCPQ phải theo quy định của Luật và nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 cũng đã quy định về các nguyên tắc PCPQ. Tuy nhiên, những nội dung này mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, nằm rải rác trong hai luật này. Luật Tổ chức CQĐP chưa xác định được nguyên tắc, phạm vi, giới hạn quyền được phân cấp; quyền hạn của các cấp chính quyền được giao chưa thật sự gắn với trách nhiệm và nguồn lực, khiến không ít địa phương lúng túng trong tổ chức thực hiện. Nội dung nguyên tắc phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước (QLNN) cũng chưa được cụ thể hóa đối với từng lĩnh vực chuyên ngành.

Theo kết quả khảo sát1, trong các nhận định đánh giá về quy định pháp luật về tổ chức bộ máy HCNN theo nguyên tắc PCPQ chưa đầy đủ thì tỷ lệ cao nhất – có tới 57,14% đối tượng khảo sát cho rằng nguyên nhân là do hệ thống chính sách về PCPQ trong bộ máy nhà nước chưa đồng bộ, thậm chí mới chỉ dừng lại ở những nguyên tắc, yêu cầu mà chưa có những cơ chế cụ thể. Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định chung việc phân cấp của cơ quan cấp trên cho CQĐP trong một số trường hợp cần thiết (khoản 3 Điều 112). Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 thì quy định “cứng” không rõ ràng về thẩm quyền phân cấp (khoản 1 Điều 13).

Nghĩa là, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở Hiến định hết sức quan trọng cho việc PCPQ nhưng Luật Tổ chức CQĐP đã không cụ thể hóa được quy định này; chưa phân định rõ đâu là nhiệm vụ của CQĐP và đâu là nhiệm vụ, quyền hạn của UBND để phân cấp. Tất cả vấn đề liên quan đến việc phân cấp của UBND cấp tỉnh, cấp huyện cho cấp dưới là cấp huyện, cấp xã, cơ quan, tổ chức khác đều phải trình cho HĐND cùng cấp để ban hành nghị quyết.

Thứ hai, quy định về cách hiểu nguyên tắc phân cấp và nguyên tắc phân quyền chưa được phân tách và làm rõ.Sự khác nhau trong quản lý một công việc – giữa các cấp địa phương vẫn chưa được quy định rõ. Theo Luật Tổ chức CQĐP, nếu so sánh thì nhiệm vụ của cấp xã (phường) hầu như không khác nhau. Sự không rành mạch này cũng thể hiện rõ trong các quy định về nhiệm vụ của HĐND với UBND, thẩm quyền của HĐND và UBND cũng không mấy khác biệt.

Nguyên tắc tôn trọng các thẩm quyền riêng của địa phương chưa được làm rõ trong Luật Tổ chức CQĐP như mục c khoản 2 Điều 11 Luật Tổ chức CQĐP quy định: “Những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền địa phương cấp huyện; những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền địa phương cấp tỉnh; những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nước ở trung ương, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có quy định khác”.

Thứ ba, pháp luật chưa xác lập đầy đủ cơ sở pháp lý để tạo bước chuyển căn bản và mạnh mẽ về phân quyền hợp lý giữa các chính quyền trong tổ chức bộ máy. Sau Hiến pháp năm 2013, khá nhiều lĩnh vực đã được phân cấp cho địa phương. Tuy nhiên, cơ chế trao quyền cũng còn có một số vấn đề như đa số việc trao quyền được thực hiện trong các đạo luật chuyên ngành; trao quyền được thực hiện bằng công cụ lập quy; PCPQ mới chỉ được triển khai mạnh giữa trung ương và cấp tỉnh mà chưa rõ ràng giữa các cấp địa phương.

Luật Tổ chức CQĐP chưa cụ thể hóa sự khác biệt trong quyền hạn của từng đơn vị hành chính lãnh thổ. Cho đến nay cũng chưa có luật nào khác quy định về thẩm quyền riêng cho một loại hình đơn vị hành chính nào, thậm chí là đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Trong khi đó, các đạo luật chuyên ngành đã thể hiện tư duy phân cấp rành mạch hơn nhiều, như: Luật Phí và lệ phí, Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Trợ giúp pháp lý,… Trong các đạo luật này, hoạt động thực thi hầu như đều thuộc về chính quyền cấp tỉnh; ở trung ương chỉ làm nhiệm vụ định hướng và giám sát.

Thứ tư, pháp luật chưa xác định lĩnh vực, công việc rõ ràng, rành mạch để phân quyền cho hợp lý, trong đó có lĩnh vực tổ chức bộ máy và tổ chức nhân sự theo hướng bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp chính quyền.

Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy HCNN, thẩm quyền quyết định số lượng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp thuộc về Chính phủ. Trong lĩnh vực quản lý nhân sự HCNN, sự tự chủ thực sự của các cơ quan trực tiếp sử dụng công chức vẫn chưa được bảo đảm. UBND cấp tỉnh không có quyền tuyển dụng thêm người mới dựa trên nhu cầu công việc nếu không được phân bổ thêm chỉ tiêu biên chế; không có quyền xác định tiêu chuẩn tuyển dụng; không có quyền lựa chọn hình thức thi tuyển… Trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, do quyền phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi tập trung ở cấp tỉnh mà không quy định cụ thể trong luật về việc phân cấp cho cấp huyện và cấp xã, nên có tình trạng nguồn lực tập trung ở cấp tỉnh, không tạo được sự chủ động về ngân sách của chính quyền cấp dưới để thực thi các nhiệm vụ được giao.

Giải pháp hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo nguyên tắc phân cấp, phân quyền đối với Việt Nam

Một là, hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của cơ quan HCNN, trong đó tập trung xác định rõ địa vị pháp lý, chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể quản lý HCNN.

Hiện tại, các cơ quan trực thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quá nhiều, tạo nên nhiều đầu mối trực thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, khiến hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, cần phải cơ cấu lại theo hướng giảm các đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống HCNN các cấp…, cụ thể như sau:

(1) Giảm bớt các bộ và cơ quan ngang bộ theo tinh thần là tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra. Từ đó, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành.

(2) Giữ nguyên các đơn vị hành chính cấp tỉnh như hiện nay, đồng thời thành lập thêm một số đơn vị hành chính trung gian có tính chất vùng (khu vực) để chỉ đạo trực tiếp các tỉnh, thành phố. Điều này có thể “khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính tỉnh”, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các địa phương thông qua các cơ quan hành chính vùng (khu vực). Chẳng hạn, có thể chia thành 6 vùng (khu vực) và thành lập các cơ quan hành chính khu vực (không thành lập HĐND) để thuận tiện cho cả địa phương và trung ương trong quản lý hành chính của cả nước.

Hai là, quy định chức năng của Chính phủ trong việc thống nhất quản lý đối với các mặt của đời sống kinh tế – xã hội trong Hiến pháp.

Mặc dù Hiến pháp năm 2013 không có quy định chức năng của Chính phủ thống nhất QLNN đối với các mặt đời sống kinh tế – xã hội, nhưng Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ về thống nhất QLNN cho từng lĩnh vực. Tuy nhiên, trên thực tế, bộ, cơ quan ngang bộ chưa thực sự là một pháp nhân công quyền, có chức năng QLNN đối với các ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước bằng pháp luật. Do đó, thông qua việc phân công rõ quyền hạn và trách nhiệm cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ sẽ tạo tiền đề đẩy mạnh PCPQ cho CQĐP.

Bên cạnh đó, Hiến phápLuật Tổ chức CQĐP cần xác định và thể hiện rõ hơn quan điểm về phân quyền. Đó là việc thừa nhận thẩm quyền của CQĐP đối với những nơi có đủ điều kiện thực hiện. Tư tưởng phân quyền và những nguyên tắc phân quyền cần phải được quy định trong chính Hiến pháp, là nhiệm vụ của Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 chưa sử dụng và quy định đích danh thuật ngữ phân quyền mà vẫn dùng các khái niệm “quyết định các vấn đề của địa phương”, “phân định thẩm quyền”, “được giao thực hiện một số nhiệm vụ”. Điều này gây ra những rào cản nhất định từ trong nhận thức của những người quản lý; chưa tạo ra cơ chế rõ ràng để các địa phương chủ động, tích cực phát huy các thế mạnh, lợi thế của mình trong phát triển kinh tế – xã hội.

Chẳng hạn, đối với các thành phố trực thuộc trung ương, là đầu tàu kinh tế của đất nước, ngoài việc tự cân đối về ngân sách còn đóng góp rất lớn cho ngân sách trung ương thì phải được phân quyền quyết định những vấn đề của địa phương như: tổ chức bộ máy, số lượng biên chế; mức tăng thu nhập cho cán bộ, công chức… nhằm tạo ra sự chủ động cho CQĐP khi quyết định các vấn đề về tổ chức bộ máy tại địa phương đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý.

Ba là, nghiên cứu ban hành luật về PCPQ nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Hiến pháp năm 2013 về PCPQ.

Các quy định về phân cấp của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đều là quy định có tính nguyên tắc, chỉ đơn giản là nhắc lại (hay chép lại) một số quan điểm, chủ trương của Đảng về phân cấp giữa trung ương và địa phương. Trong đó, nội dung nêu tại các điểm còn lại là quy định trách nhiệm chung về phân cấp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Tư tưởng chung của các quy định này là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đều phải có trách nhiệm phân cấp cho CQĐP.

Còn phân cấp thế nào, phân cấp đến đâu, những việc gì không được phân cấp… thì lại chưa được quy định. Vì vậy, trước hết cần phải rà soát lại toàn bộ các luật, các văn bản dưới luật có quy định về PCPQ cho CQĐP, kể cả việc ban hành cơ chế đặc thù cho một số thành phố lớn. Để PCPQ một cách hợp lý, khoa học, bảo đảm sự thống nhất trong PCPQ, đồng thời cần ban hành Luật về PCPQ.

Hiện nay, thực tế cho thấy có nhiều nội dung đã được phân cấp cho địa phương nhưng cấp trên buông lỏng việc thanh tra, kiểm tra dẫn đến cấp dưới vi phạm; trong khi các cấp chính quyền bên dưới chưa có đủ năng lực, dẫn đến không kiểm soát sát sao và để xảy ra không ít tiêu cực, điển hình nhất là trong PCPQ quản lý đất đai. Việc cho phép các huyện ban hành quy hoạch sử dụng đất, cũng như cấp giấy chứng nhận đăng ký đất làm cho số lượng quy hoạch đất quá lớn và dẫn đến nhiều quy hoạch treo; nhưng cũng có trường hợp đã phân quyền nhưng cấp trên vẫn can thiệp vào việc thực hiện của cấp dưới. Vì vậy, việc ban hành Luật về PCPQ cùng với việc thiết lập tổ chức bộ máy các cơ quan HCNN tại địa phương theo mô hình chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn sẽ phát huy được tính năng động, tự chủ của CQĐP trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.

Bốn là, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan HCNN mỗi cấp, của mỗi cấp hành chính.

Thực chất mối quan hệ quyền lực giữa cấp trung ương và các cấp địa phương không chỉ thể hiện trong quan hệ quyền uy và phục tùng theo mô hình cấp trên và cấp dưới mà còn là mối quan hệ có tính phân công và phối hợp quyền lực thông qua các nguyên tắc phân cấp quản lý. Vì thế, CQĐP không chỉ là các cơ quan cấp dưới, phục tùng cơ quan nhà nước ở trung ương mà còn là cơ quan có quyền độc lập (tự chủ). Với ý nghĩa này, việc quán triệt tính thống nhất của quyền lực nhà nước không chỉ nhằm bảo đảm sự thống nhất của chủ quyền quốc gia mà còn nhằm bảo đảm tính độc lập tương đối của các cấp CQĐP trong giới hạn phạm vi các đơn vị hành chính lãnh thổ tương ứng.

Đối với CQĐP, do đặc thù hoạt động là thực hiện chức năng QLNN nên việc đổi mới, hoàn thiện các cơ quan này thường được gắn với nhiệm vụ cải cách hành chính, xây dựng bộ máy các cơ quan HCNN. Trong lĩnh vực phân cấp quản lý tổ chức bộ máy giữa trung ương và chính quyền các thành phố trực thuộc trung ương sẽ có tác động rất lớn đến hiệu lực, hiệu quả QLNN không chỉ trên địa bàn các thành phố mà còn đối với cả nước. Do đó, cần có những cơ chế, chính sách đặc biệt dành riêng thẩm quyền này cho các thành phố trực thuộc trung ương.

Năm là, xây dựng cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát khi thực hiện PCPQ.

Trong bối cảnh phân cấp hiện nay, cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ phải làm rõ nội dung: đối với các thẩm quyền chưa phân quyền cho địa phương, có nghĩa là những thẩm quyền mà địa phương thực hiện căn cứ vào văn bản pháp luật, sự chỉ đạo của cấp trên (ví dụ: trước khi quyết định phải được phê chuẩn, duyệt của cấp trên). Trong trường hợp này, cấp trên có quyền giám sát trực tiếp thông qua việc đình chỉ, bãi bỏ các văn bản của CQĐP nếu trái luật, trái văn bản cấp trên. Đối với những thẩm quyền đã phân quyền cho địa phương, có nghĩa là những thẩm quyền mà địa phương có toàn quyền tự quyết, thì các cơ quan hành chính cấp trên không có quyền giám sát, CQĐP chỉ chịu sự kiểm soát duy nhất của pháp luật – mà đại diện là cơ quan tư pháp. Theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, cơ quan có quyền giám sát văn bản của địa phương trong trường hợp này là Tòa hành chính.

Chú thích:
1. Điều tra, khảo sát được thực hiện với 300 phiếu: bao gồm học viên của các lớp bồi dưỡng chuyên viên cao cấp, lớp bồi dưỡng quản lý lãnh đạo cấp vụ, lớp bồi dưỡng lãnh đạo cấp sở và tương đương, lớp bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính đang công tác tại các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân một số tỉnh phía Bắc. Đề tài khoa học cấp Bộ “Tổ chức bộ máy hành chính phù hợp nguyên tắc phân cấp, phân quyền ở Việt Nam hiện nay. Học viện Hành chính Quốc gia, mã số: ĐT.12/19, 2020.
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Văn Thành. Xây dựng mô hình sinh thái kinh tế tuần hoàn đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tạp chí Cộng sản, số 944 (6/2020), tr. 49 – 53.

 Thượng tướng, PGS.TS. Nguyễn Văn Thành
Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an