Thực hiện chính sách đào tạo nghề đối với lao động dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa

(Quanlynhanuoc.vn) – Đào tạo nghề (ĐTN) là một trong những chính sách quan trọng đối với lao động dân tộc thiểu số (DTTS) nhằm giải quyết việc làm, ổn định sinh kế và xóa đói, giảm nghèo. Tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu về thực hiện chính sách đào tạo nghề (CSĐTN) đối với lao động DTTS, tuy nhiên, trong quá trình triển khai chính sách vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi chính quyền tỉnh cần có những giải pháp đồng bộ, đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện CSĐTN đối với lao động DTTS.

 

Nghề dệt thổ cẩm ở huyện Ngọc Lặc – Thanh Hóa luôn thu hút được đông đảo học viên tham gia (nguồn: https://baodantoc.vn).
Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề đối với lao động vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa

Hiện nay, các DTTS tỉnh Thanh Hóa tập trung chủ yếu ở 11 huyện miền núi và 6 huyện giáp ranh, với dân số  621.436 người người, gồm 6 dân tộc chủ yếu là: Mường, Thái, Thổ, Mông, Dao, Khơ Mú. Có 7 huyện nghèo, 115 xã đặc biệt khó khăn và 197 thôn, bản đặc biệt khó khăn1.

Căn cứ vào Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” và Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 – 2020”, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm cụ thể hóa các chính sách do Trung ương ban hành, tạo môi trường thuận lợi để thực hiện dạy nghề cho lao động nông thôn, trong đó có lao động là đồng bào DTTS, như: Quyết định số 3652/QĐ-UBND ngày 13/12/2006 phê duyệt Kế hoạch phát triển ĐTN và xã hội hóa dạy nghề tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010; Quyết định số 2406/2006/QĐ-UBND ngày 05/9/2006 về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; Quyết định số 2642/2009/QĐ-UBND ngày 10/8/2009 về chính sách khuyến khích, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Quyết định số 3906/QĐ-UBND ngày 29/10/2010 ban hành phê duyệt Đề án “ĐTN cho lao động nông thôn tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020”.

Theo đó, quá trình thực hiện CSĐTN đối với lao động vùng DTTS đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tỉnh đã tiến hành ĐTN cho 6.029 người, bố trí việc làm cho 4.800 người sau khi tham gia các khóa học nghề. Đồng thời, xây dựng và phát triển 12 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm: 2 trường trung cấp nghề và 10 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, đã ĐTN cho đồng bào DTTS trên địa bàn 11 huyện miền núi Thanh Hóa2. Các cơ sở ĐTN hằng năm triển khai rất nhiều các khóa dạy các nghề về chăn nuôi, trồng trọt, các lớp thủ công mỹ nghệ, các nghề truyền thống của đồng bào dân tộc như dệt thổ cẩm, đan lát…

Cơ sở vật chất, trường lớp học, cũng được đầu tư nâng cấp, máy móc được đầu tư hiện đại để phục vụ công tác ĐTN. Cùng với dạy nghề cho đồng bào DTTS, tỉnh cũng tiến hành dạy ngoại ngữ cho thanh niên DTTS nhằm đưa người lao động ra nước ngoài làm việc. Năm 2019, có 2.800 người đi xuất khẩu lao động ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Ru-ma-ni, Trung Đông3.

Nhìn chung, các CSĐTN đã phát huy vai trò to lớn trong việc giải quyết việc làm, cải thiện sinh kế và đời sống của đồng bào DTTS, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo 2,54%/năm, thu nhập hộ nghèo tăng khoảng 1,74 lần4.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ĐTN cho lao động DTTS của tỉnh Thanh Hóa còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết, công tác tuyên truyền về các lớp dạy nghề cho đồng bào DTTS được tiến hành chưa thực sự hiệu quả, chưa xác định trọng tâm tuyên truyền, vận động, nội dung, phương thức tuyên truyền còn chung chung, chưa phù hợp đối tượng lao động DTTS – đối tượng vốn có trình độ nhận thức còn hạn chế. Chương trình dạy nghề chưa thực sự phù hợp, gắn với nhu cầu của thị trường, dẫn đến tình trạng sau khi học xong, học viên chưa tìm được việc làm phù hợp.

Chính quyền các cấp tỉnh Thanh Hóa còn chưa hỗ trợ và giới thiệu, tạo điều kiện cho các học viên là đồng bào DTTS sau khi học xong có việc làm phù hợp với chuyên môn được dạy. Về phía lao động DTTS, nhận thức của người lao động DTTS khi tham gia các lớp dạy nghề còn thấp, vẫn còn nhiều đồng bào có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào chính sách của Nhà nước nên một số trường hợp sau học nghề vẫn quay lại làm các công việc như cũ, chưa mạnh dạn chuyển đổi nghề nghiệp hay vay vốn để phát triển sản xuất.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do: khung pháp lý hướng dẫn thực hiện CSĐTN cho lao động DTTS còn chưa hoàn thiện, dẫn tới lúng túng trong quá trình triển khai; chưa có cán bộ, công chức chuyên trách về triển khai CSĐTN cho lao động DTTS,  do vậy công tác chỉ đạo, tuyên truyền, vận động, điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề, tìm kiếm công ty, doanh nghiệp vừa dạy nghề và giải quyết việc làm cho người lao động DTTS sau ĐTN chưa thật sự tốt. Việc đầu tư thiết bị dạy nghề cho các trung tâm dạy nghề vừa hạn chế về kinh phí, vừa yếu về chất lượng giáo viên dạy nghề; nội dung, chương trình dạy nghề cho lao động DTTS chưa sát với yêu cầu của thị trường, chưa thực sự phù hợp với lao động DTTS.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề đối với lao động vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Thanh Hóa

Mục tiêu của CSĐTN đối với lao động vùng DTTS là: nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTN nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động DTTS, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (Quyết định số 3906/QĐ-UBND). Trong đó, đối với 11 huyện miền núi, về lĩnh vực nông nghiệp sẽ tập trung dạy các nghề chủ yếu sau: trồng và khai thác rừng, kỹ thuật trồng luồng hỗn giao, bảo vệ rừng, sản xuất, kinh doanh cây giống lâm nghiệp, kỹ thuật nông lâm kết hợp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chế biến nông lâm thủy sản, nuôi trồng thủy sản nước ngọt; về lĩnh vực phi nông nghiệp sẽ tập trung dạy các nghề: sửa chữa cơ khí, nguội lắp ráp cơ khí, sửa chữa máy bơm điện; quản lý điện nông thôn, điện dân dụng, mộc dân dụng, mộc mỹ nghệ.

Giải pháp chung là: (1) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội, của cán bộ, công chức xã và lao động nông thôn, trong đó có lao động DTTS về vai trò của ĐTN đối với việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (2) Phát triển mạng lưới cơ sở ĐTN; (3) Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; (4) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên; xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề; (5) Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách.

Để thực hiện tốt các mục tiêu và giải pháp nêu trên, đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện CSĐTN đối với lao động vùng DTTS, tỉnh Thanh Hóa cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng và Nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức về vai trò của CSĐTN đối với lao động vùng DTTS trên địa bàn tỉnh, qua đó, để các cấp, các ngành chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong quá trình triển khai thực hiện chính sách. Trong đó, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Nội vụ và các sở, ngành có liên quan hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách, giải pháp, chủ trì các hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn. Ngoài ra, còn có sự tham gia phối hợp với UBND các huyện, các xã vùng DTTS; Ban Dân tộc tỉnh, các trường trung cấp nghề miền núi, trung tâm giáo dục nghề nghiệp…

Đối tượng chịu tác động trực tiếp CSĐTN đối với lao động vùng DTTS của chính sách này là người lao động DTTS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, trong đó quan trọng nhất là thanh niên DTTS.

Thứ hai, cần tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, tài chính và nguồn nhân lực cho các cơ sở ĐTN đối với DTTS. Trong đó, cần đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên dạy nghề; đồng thời đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy nghề phù hợp với đối tượng là lao động DTTS. Bên cạnh đó, cần tăng quy mô đào tạo gắn với đầu tư cho các trường nghề dân tộc nội trú; ĐTN gắn kết với doanh nghiệp và thị trường lao động để bảo đảm cho học viên DTTS có việc làm sau khi tham gia các khóa học nghề.

Thứ ba, đối với UBND tỉnh Thanh Hóa, cần tăng cường chỉ đạo các huyện, xã trong việc khảo sát, đánh giá nhu cầu học nghề của lao động DTTS song song với việc tổ chức điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng lao động tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp để nhằm ký kết, hợp tác đào tạo những ngành nghề phù hợp và giải quyết việc làm cho học viên DTTS. Đồng thời, tạo điều kiện, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lao động DTTS vào làm việc tại công ty. Tiếp tục tạo điều kiện để lao động DTTS sau học nghề được tiếp cận và vay các nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp, hạn chế tình trạng người lao động sau học nghề trở lại làm công việc cũ (chủ yếu là làm nông nghiệp)

Cùng với đó, cần có nhiều biện pháp đổi mới trong việc nêu gương các điển hình tiên tiến, biểu dương những hộ gia đình giỏi sản xuất, những cá nhân tiêu biểu đạt thành tích cao trong lao động sản xuất, chuyển đổi sinh kế bền vững nhờ các ngành nghề được đào tạo.

Chú thích:
1. Các Dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa. https://bdt.thanhhoa.gov.vn, ngày 29/7/2020.
2. Thanh Hóa: Chăm lo, ổn định đời sống cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số. https://infonet.vn, ngày 11/10/2018.
3. Hiệu quả từ chương trình đào tạo nghề ở miền núi. http://baothanhhoa.vn, ngày 28/3/2020.
4. Thanh Hóa: Người dân có việc làm, kéo tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh https://congthuong.vn, ngày 27/12/2019.
ThS. Đỗ Thị Vui
 Học viện Hành chính Quốc gia